Bản án 177/2021/HSST ngày 17/05/2021 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 177/2021/HSST NGÀY 17/05/2021 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 17 tháng 5 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 184/2021/HSST ngày 20/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2021/QĐXXST-HS ngày 29/4/2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Hoàng Quốc T; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 20 tháng 7 năm 1969; nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố Đ, phường Đ, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 11/12; con ông Hoàng Quốc Tr và bà Đỗ Thị L (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị D (tên gọi khác: H); có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2021 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Bình Đ; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 03 tháng 02 năm 1980; nơi đăng ký HKTT: Xóm Ph, xã Ph, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 6/12; con ông Nguyễn Trọng Ph và bà Nguyễn Thị Th; có vợ là Quách Thị H; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: ngày 08/7/2019 Công an huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyễn xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/01/2021 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Phạm Văn N; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 15 tháng 12 năm 1985; nơi đăng ký HKTT: Xóm C, xã Đ, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 9/12; con ông Phạm Văn T và bà Đặng Thị Th; có vợ là Hà Thị Ng; có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2021 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 30 phút ngày 09/01/2021, Tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành xác minh, kiểm tra tại nhà ở của Nguyễn Bình Đ Xóm Ph, xã Ph, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, thu giữ tại túi quần bên trái Đ đang mặc 01 gói giấy bạc bên trong có các cục chất bột màu trắng, Đ khai là Heroine. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đ, niêm phong vật chứng, tạm giữ tại túi quần bên phải của Đ 1.000.000 đồng.

Hồi 13 giờ cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Bình Đ, thu giữ: trong tủ đặt tại phòng ngủ 03 gói giấy bên trong đều có 01 túi nilon màu trắng, chứa các cục chất bột màu trắng; thu giữ trên bàn trong phòng khách 01 điện thoại di động nhãn hiệu REDMI, vỏ màu đen có số thuê bao 0977.858.900.

Tiến hành cân xác định khối lượng các cục chất bột màu trắng thu giữ trên người khi bắt quả tang Đ là 0,8 gam, niêm phong, lấy mẫu ký hiệu G gửi giám định; khối lượng các cục chất bột màu trắng thu giữ khi khám xét nơi ở của Đ là 8,64 gam, niêm phong, lấy mẫu ký hiệu G1 gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 228/KL-KTHS ngày 15/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu các cục chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu G gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng gửi giám định là 0,16 gam. Tổng khối lượng thu giữ ban đầu là 0,8 gam; Mẫu các cục chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu G1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng gửi giám định là 0,16 gam. Tổng khối lượng thu giữ ban đầu là 8,64 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Bình Đ khai: Số ma túy bị thu giữ do Đ mua của Hoàng Quốc T tại nhà của T thuộc tổ dân phố Đông, phường Đồng Bẩm, thành phố Thái Nguyên mục đích để sử dụng cho bản thân. Đ đã mua ma túy của T hai lần: Lần thứ nhất, khoảng 12 giờ ngày 31/12/2020, Đ mua của T 01 gói Heroine với giá 1.500.000 đồng, mua xong, Đ mang về nhà sử dụng hết. Lần thứ hai, khoảng 12 giờ ngày 07/01/2021, Đ mua của T 03 gói ma túy Heroine với giá 10.500.000 đồng, mua xong, Đ mang về nhà chia thành 04 gói, 01 gói Đ cất giấu trên người để sử dụng dần, còn 03 gói Đ cất ở trong tủ đặt trong phòng ngủ của Đ.

Đến ngày 09/01/2021, cơ quan Công an đã thu giữ cả 04 gói ma túy nêu trên.

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 11/01/2021, tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Hoàng Quốc T tại tổ dân phố Đ, phường Đ, thành phố Thái Nguyên. T lấy từ trong túi áo khoác bên trái ra 02 gói giấy bên trong mỗi gói có 01 túi nilon màu trắng chứa các cục chất bột màu trắng, T khai là Heroine của T mua về để bán kiếm lời. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, niêm phong thu giữ vật chứng theo quy định. Tạm giữ của T 6.500.000 đồng, 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone, vỏ màu trắng, 01 Chứng minh thư nhân dân mang tên Hoàng Quốc T.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của T thu giữ dưới gầm bàn trong phòng khách 01 cân điện tử nhãn hiệu POCKET SCALE.

Tiến hành cân xác định khối lượng các cục chất bột màu trắng thu giữ khi bắt quả tang T là 7,46 gam, niêm phong lấy mẫu ký hiệu Q1 gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 242/KL-KTHS ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu các cục chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu Q1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng gửi giám định là 0,21 gam. Tổng khối lượng thu giữ ban đầu là 7,46 gam.

Quá trình thi hành lệnh khám xét đối với T, hồi 12 giờ 20 phút ngày 11/01/2021, tại khu vực đường dân sinh gần chân cầu B, thuộc tổ dân phố Đ, phường Đ, thành phố Thái Nguyên, tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tại túi áo khoác bên phải Phạm Văn N đang mặc 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các cục chất bột màu trắng, tạm giữ tại túi áo khoác bên trái N đang mặc 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO, vỏ màu hồng. N khai gói ma túy bị thu giữ là Heroine do N mua tại nhà của Hoàng Quốc T vào khoảng 12 giờ cùng ngày với giá 3.500.000 đồng.

Tiến hành cân xác định khối lượng các cục chất bột màu trắng thu giữ khi bắt quả tang N là 3,64 gam, niêm phong lấy mẫu ký hiệu Q2 gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 241/KL-KTHS ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Các cục chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu Q2 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng gửi giám định là 0,22 gam. Tổng khối lượng thu giữ ban đầu là 3,64 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Quốc T khai: Toàn bộ số ma túy Heroine T đã bán cho Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N cũng như thu giữ trên người của T đều do T mua của 01 người đàn ông tên T, không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực gầm cầu vượt Đán thuộc phường Th, thành phố Thái Nguyên với mục đích để bán kiếm lời. T đã mua ma túy của Tự nhiều lần nhưng chỉ nhớ 03 lần gần nhất, T đã bán ma túy cho Nguyễn Bình Đ 02 lần, bán ma túy cho Phạm Văn Năm 01 lần, cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 9 giờ ngày 31/12/2020, T 01 mình đến khu vực gầm cầu vượt Đán thuộc phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên, gặp và mua của Tự 01 gói ma túy Heroine với giá 1.300.000 đồng. T mang ma túy về nhà, khoảng 12 giờ cùng ngày T đã bán gói Heroine này cho Nguyễn Bình Đ với giá 1.500.000 đồng, tại nhà T.

Lần thứ hai: Khoảng 9 giờ ngày 07/01/2021, T đến khu vực gầm cầu vượt Đán để gặp và mua của Tự 03 gói Heroine với giá 9.000.000 đồng. T mang ma túy về nhà, khoảng 12 giờ cùng ngày T bán 03 gói Heroine trên cho Nguyễn Bình Đ với giá 10.500.000 đồng, tại nhà của T.

Lần thứ ba: Khoảng 9 giờ ngày 11/01/2021, T đến khu vực gầm cầu vượt Đán để gặp và mua của Tự 03 gói ma túy Heroine với giá 9.000.000 đồng. T mang ma túy về nhà và luôn cất giấu trên người. Khoảng 12 giờ 15 phút cùng ngày, T bán 01 gói Heroine cho Phạm Văn N với giá 3.500.000 đồng, 02 gói Heroine còn lại T cất giấu trong túi áo khoác bên trái với mục đích để bán kiếm lời, nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng Công an phát hiện thu giữ như nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 195/CT-VKSTPTN ngày 19/4/2021, VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Hoàng Quốc T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Truy tố Nguyễn Bình Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự; Truy tố Phạm Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 195/CT-VKSTPTN ngày 19/4/2021, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Quốc T phạm tội “Mua trái phép chất ma túy”; các bị cáo Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đề nghị áp dụng điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Hoàng Quốc T từ 10 đến 11 năm tù; Phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo từ 5 đến 10 triệu đồng.

Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Bình Đ từ 6 đến 7 năm tù;

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Phạm Văn N từ 3 đến 4 năm tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N;

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước điện thoại di động của Hoàng Quốc T, Nguyễn Bình Đ; buộc T phải truy nộp số tiền T khai bán ma túy cho Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N mà có; tạm giữ số tiền 6.500.000 đồng của Hoàng Quốc T, 1.000.000 đồng của Nguyễn Bình Đ, 01 điện thoại di động của Phạm Văn N để đảm bảo thi hành án; tịch thu tiêu hủy vật chứng khác.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[2] Tại phiên tòa các bị cáo Hoàng Quốc T, Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N đều khai nhận hành vi phạm tội đúng như lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám địnhh và các chứng cứ, tài liệu được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định:

Khong 12 giờ ngày 31/12/2020, Hoàng Quốc T bán cho Nguyễn Bình Đ 01 gói Heroine với giá 1.500.000 đồng; khoảng 12 giờ ngày 07/01/2021 T bán cho Nguyễn Bình Đ 03 gói Heroine, khối lượng 9,44 gam với giá 10.500.000 đồng; khoảng 12 giờ 15 phút ngày 11/01/2021, T bán cho Phạm Văn N 01 gói Heroine, khối lượng 3,64 gam với giá 3.500.000 đồng, số còn lại 7,46 gam Heroin T chưa kịp bán thì bị phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng. Tổng khối lượng Heroin T đã bán cho Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N, tàng trữ nhằm mục đích bán kiếm lời, cơ quan điều tra thu giữ được là 20,54 gam Heroin.

Nguyễn Bình Đ đã 02 lần mua Heroin của T nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, trong đó ngày 09/01/2021 T bị bắt quả tang khi đang tàng trữ 9,44 gam Heroin.

Phạm Văn N đã có hành mua 3,64 gam Heroine của Hoàng Quốc T để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[4] Hành vi của bị cáo Hoàng Quốc T đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 bộ luật hình sự là: Phạm tội 02 lần trở lên và Heroin có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam. Hành vi của bị cáo Nguyễn Bình Đ đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là: Heroin có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam. Hành vi của bị cáo Phạm Văn N đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là: Heroin có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

[5] Bản cáo trạng số 195/CT-VKSTPTN ngày 19/4/2021 VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố các bị cáo Hoàng Quốc T, Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[6] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[7] Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn, vì vậy các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[6] Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để cải tạo giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung:

[7] Bị cáo Hoàng Quốc T mua bán ma túy nhằm mục đích kiếm lời, nên áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Các bị cáo Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân. Các bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, thu nhập không ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về vật chứng:

[8] Đối với các điện thoại di động tạm giữ của Hoàng Quốc T và Nguyễn Bình Đ, các bị cáo khai sử dụng vào việc liên lạc để mua bán ma túy, nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Đối với số tiền bị cáo Hoàng Quốc T khai bán ma túy cho Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N mà có, cần buộc T phải nộp vào ngân sách Nhà nước; tạm giữ số tiền 6.500.000 đồng của Hoàng Quốc T, 1.000.000 đồng của Nguyễn Bình Đ, 01 điện thoại di động của Phạm Văn N để đảm bảo thi hành án; Trả lại cho Hoàng Quốc Tung chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Quốc T; tịch thu tiêu hủy vật chứng khác.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Hoàng Quốc T 10 ( mười) năm tù về tội “Mua trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 11/01/2021.

2. Căn cứ vào: điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Bình Đ 6 (sáu) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 09/01/2021.

3. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Phạm Văn N 3 (ba) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 11/01/2021.

4. Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Quyết định tạm giam bị cáo Hoàng Quốc T, Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N, mỗi bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

5. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, phạt Hoàng Quốc T 10.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Nguyễn Bình Đ và Phạm Văn N.

6. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp khác: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng:

6.1. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước của Hoàng Quốc T, Nguyễn Bình Đ:

01 điện thoại di động nhãn hiệu REDMI, vỏ màu đen, số MODEL: M2004J19G, kèm theo số thuê bao 0977858900;

01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, vỏ màu trắng, số IMEI: 353011090235706, kèm theo số thuê bao 0399557566.

6.2. Buộc Hoàng Quốc T phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền do phạm tội mà có là 15.500.000 đồng.

6.3. Tạm giữ số tiền 6.500.000 đồng của Hoàng Quốc T, 1.000.000 đồng của Nguyễn Bình Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, vỏ màu hồng, số IMEI1: 866346030503593, số IMEI2: 866346030503585, kèm theo số thuê bao: 0349468525 của Phạm Văn N để đảm bảo thi hành án.

6.4. Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: L, có ghi 0,64 gam mẫu lưu kho vụ Nguyễn Bình Đ, mặt sau có 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên và 07 chữ ký của Diệp Trương Ý Nguyện, Nguyễn Bình Đ, Nguyễn Ngọc Thành, Nguyễn Tuyết Vân, Nguyễn Trọng Phú, Tống Hoàng Hải, Nguyễn Việt Hoàng.

- 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: L1, có ghi 8,48 gam mẫu lưu kho vụ Nguyễn Bình Đ, mặt sau có 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên và 07 chữ ký của Diệp Trương Ý Nguyện, Nguyễn Bình Đ, Nguyễn Ngọc Thành, Nguyễn Tuyết Vân, Nguyễn Trọng Phú, Tống Hoàng Hải, Nguyễn Việt Hoàng.

- 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: L1, có ghi 7,25 gam mẫu lưu kho vụ Hoàng Quốc T, mặt sau có 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên và 06 chữ ký của Diệp Trương Ý Nguyện, Hoàng Quốc T, Hoàng Chí Hào, Nguyễn Trung Hiếu, Nguyễn Thanh Hiếu, Mai Thành Viên.

- 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: L2, có ghi 3,42 gam mẫu lưu kho vụ Phạm Văn N, mặt sau có 03 dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên và 06 chữ ký của Diệp Trương Ý Nguyện, Phạm Văn N, Nguyễn Việt Hoàng, Hà Việt Dũng, Nguyễn Thanh Hiếu, Mai Thành Viên.

- 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: G, có ghi hoàn trả 0,131 gam mẫu G còn lại sau giám định và vỏ bao mẫu G vụ Nguyễn Bình Đ, sinh năm 1980, phạm tội về ma túy, mặt sau có 02 dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên và 02 chữ ký của Nguyễn Hoàng Thông, Trần Đức Thủy.

- 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: G, có ghi hoàn trả 0,152 gam mẫu G1 còn lại sau giám định và vỏ bao mẫu G1 vụ Nguyễn Bình Đ, sinh năm 1980, phạm tội về ma túy, mặt sau có 02 dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên và 02 chữ ký của Nguyễn Hoàng Thông, Trần Đức Thủy.

- 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q1, có ghi hoàn trả 0,195 gam mẫu Q1 còn lại sau giám định và vỏ bao mẫu Q1 vụ Hoàng Quốc T, sinh năm 1969, phạm tội về ma túy, mặt sau có 02 dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên và 02 chữ ký của Nguyễn Hoàng Thông, Trần Đức Thủy.

- 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q2, có ghi hoàn trả 0,210 gam mẫu Q2 còn lại sau giám định và vỏ bao mẫu Q2 vụ Phạm Văn N, sinh năm 1985, phạm tội về ma túy, mặt sau có 02 dấu tròn của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Nguyên và 02 chữ ký của Nguyễn Hoàng Thông, Trần Đức Thủy.

- 01 cân điện tử nhãn hiệu POCKET SCALE, vỏ màu đen;

6.5. Trả lại Hoàng Quốc T 01 giấy CMND số 090516244 mang tên Hoàng Quốc T.

nh trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 354 ngày 07/5/2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên. Số tiền 7.500.000 đồng theo ủy nhiệm chi số 12 ngày 27/4/2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Kho bạc Nhà nước thành phố Thái Nguyên.

7. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí: buộc các bị cáo Hoàng Quốc T, Nguyễn Bình Đ, Phạm Văn N, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 177/2021/HSST ngày 17/05/2021 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:177/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về