Bản án 177/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NQ, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 177/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận NQ, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 188/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn N, sinh ngày 08 tháng 5 năm 1973 tại Hải Phòng; nơi cư trú: phường HĐ, quận DK, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Phạm Văn Nhẽo và bà Đỗ Thị Xệp (đều đã chết); có vợ là Phạm Thị Nguyệt và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 23 tháng 9 năm 2020, tạm giam ngày 25 tháng 9 năm 2020; có mặt.

2. Nguyễn Anh C, sinh ngày 01 tháng 6 năm 1983 tại Hải Phòng; nơi cư trú: đường AD, phường ĐG, quận NQ, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Danh Quyết và bà Trần Thị Thủy; có vợ là Nguyễn Thị Thu Ngân và có 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án số 06/2008/HSST ngày 18/01/2008, Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xử phạt 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 40 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xóa án tích; bị bắt tạm giữ ngày 23 tháng 9 năm 2020, tạm giam ngày 25 tháng 9 năm 2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ ngày 22/9/2020, Công an phường ĐG, quận NQ, thành phố Hải Phòng tiến hành kiểm tra khu nhà bỏ hoang tại ngõ 240 đường AD, phường ĐG, quận NQ, thành phố Hải Phòng, phát hiện, bắt quả tang Phạm Văn N và Nguyễn Anh C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ dưới mặt đất chỗ Phạm Văn N và Nguyễn Anh C ngồi 01 gói giấy bạc kích thước 1 x 2 cm chứa chất bột màu trắng nghi ma túy; thu giữ của Nguyễn Anh C 01 bật lửa ga, 01 điện thoại Nokia màu đen; thu giữ của Phạm Văn N 01 điện thoại Samsung màu vàng.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn N và Nguyễn Anh C không phát hiện, thu giữ tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án.

Bản Kết luận giám định số 614/KLGĐ ngày 25/9/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong gói giấy bạc thu giữ của Phạm Văn N và Nguyễn Anh C là ma túy, có khối lượng 0,15 gam, là loại Heroine. Mẫu nước tiểu của Phạm Văn N và Nguyễn Anh C tìm thấy chất ma túy, loại Methamphetamine và Morphine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Phạm Văn N và Nguyễn Anh C khai nhận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 22/9/2020, Phạm Văn N nảy sinh ý định sử dụng ma túy nên dùng điện thoại gắn sim số 0962024589 gọi điện đến số điện thoại 0325948082 của Nguyễn Anh C nói: “Tao có 120.000 đồng, đi mua ma túy về hai anh em mình chơi”. Nguyễn Anh C đồng ý và đi về khu vực ngã ba Bà Sáo, phường ĐG, quận NQ, Thành phố Hải Phòng để gặp Phạm Văn N. Tại đây, Phạm Văn N đưa cho Nguyễn Anh C 120.000 đồng, sau đó Nguyễn Anh C đi xe ôm của một người không quen biết đến khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Đến đầu đường, Nguyễn Anh C xuống xe, một mình đi bộ vào trong đường tàu, gặp và hỏi mua của một người đàn ông (chưa rõ nhân thân, lai lịch) 120.000 đồng ma túy Heroine. Người này nhận tiền và đưa lại cho Nguyễn Anh C 01 gói giấy bạc kích thước 1 x 2 cm chứa ma túy Heroine. Sau khi mua được ma túy, Nguyễn Anh C đi xe ôm về gặp Phạm Văn N rồi Phạm Văn N và Nguyễn Anh C rủ nhau vào khu nhà bỏ hoang trong ngõ 240 đường AD, phường ĐG, quận NQ, thành phố Hải Phòng sử dụng ma túy. Khi Phạm Văn N và Nguyễn Anh C đang chuẩn bị sử dụng ma túy thì bị lực lượng công an bắt quả tang cùng vật chứng.

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Anh C và bị cáo Phạm Văn N phù hợp với nhau, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết quả kiểm tra điện thoại, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Về vật chứng: 01 bì thư niêm phong số 614/2020/PC09 chứa ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, 01 bật lửa ga, 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen, 01 chiếc điện thoại Samsung màu vàng.

Tại Bản Cáo trạng số 04/CT-VKSNQ ngày 08/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận NQ, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C đều về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung trên, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn N với mức án từ 18 đến 24 tháng tù; bị cáo Nguyễn Anh C với mức án từ 18 đến 24 tháng tù đều về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo do các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 614/2020/PC09 chứa ma túy cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định, 01 bật lửa ga; tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen, 01 chiếc điện thoại Sam sung màu vàng đã qua sử dụng.

Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận NQ, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận NQ, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận NQ, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận NQ, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết quả kiểm tra điện thoại, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, phù hợp với sự thật khách quan, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 22/9/2020, tại khu nhà bỏ hoang trong ngõ 240 đường AD, phường ĐG, quận NQ, thành phố Hải Phòng, Phạm Văn N và Nguyễn Anh C bị bắt quả tang khi đang cất giấu trái phép 0,15 gam chất ma túy Heroine để sử dụng cho bản thân. Tại thời điểm thực hiện hành vi ngày 22/9/2020, các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự. Các bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, hành vi của các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận NQ, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

- Đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an xã hội, làm phát sinh, gia tăng nhiều loại tội phạm hình sự khác.

Xét vai trò của các bị cáo trong đồng phạm.

[4] Trong vụ án này bị cáo Phạm Văn N tham gia giữ vai trò chủ mưu, khởi xướng trực tiếp gọi điện thoại, cung cấp tiền để cho Nguyễn Anh C đi mua ma túy, bị cáo Nguyễn Anh C tham gia giữ vai trò tích cực, hưởng ứng và tiếp nhận ý chí từ bị cáo Phạm Văn N, nhận tiền và trực tiếp đi mua ma túy, cả hai bị cáo cùng thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo trong đồng phạm cần áp dụng Điều 17, 58 của Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo Phạm Văn N mức án cao hơn so với bị cáo Nguyễn Anh C. Tuy nhiên bị cáo Phạm Văn N nhân thân chưa có tiền án, tiền sự nên xử hai bị cáo mức án ngang bằng nhau là phù hợp.

- Xét về nhân thân của các bị cáo:

[5] Bị cáo Phạm Văn N không có tiền án, tiền sự; bị cáo Nguyễn Anh C có 01 tiền án: Tại Bản án số 06/2008/HSST ngày 18/01/2008, Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xử phạt 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 40 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xóa án tích, nên cần đánh giá bị cáo Nguyễn Anh C có nhân thân xấu, không từ bỏ con đường phạm tội.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[6] Các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[7] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C có thái độ khai báo thành khẩn quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ, trên cơ sở đề nghị của Kiểm sát viên và kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa; sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, bắt các bị cáo tiếp tục cách ly khỏi xã hội một thời gian, mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phát huy tác dụng răn đe, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung:

[9] Căn cứ biên bản xác minh ngày 24/9/2020 cho thấy các bị cáo không có tài sản, không nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Về xử lý vật chứng:

[10] Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 614/2020/PC09 chứa ma túy cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định, 01 bật lửa ga; tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen, 01 chiếc điện thoại Sam sung màu vàng đã qua sử dụng.

- Về án phí:

[11] Các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C mỗi bị cáo đều phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[12] Các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[13] Trong vụ án này: Đối với người lái xe ôm chở Nguyễn Anh C đến khu vực đường tàu Trần Nguyên Hãn và người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Anh C, chưa xác minh được lai lịch, địa chỉ, không có căn cứ để xem xét, xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17, 58, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Văn N 18 (mười tám) tháng tù; xử phạt Nguyễn Anh C 18 (mười tám) tháng tù đều về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C tính từ ngày 23 tháng 9 năm 2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 614/2020/PC09 chứa ma túy cùng toàn bộ vỏ bao gói còn lại sau giám định, 01 bật lửa ga; tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen, 01 chiếc điện thoại Sam sung màu vàng đã qua sử dụng. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận NQ, thành phố Hải Phòng.

Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo Phạm Văn N và Nguyễn Anh C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 177/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:177/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về