TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 177/2020/HS-ST NGÀY 11/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 182/2020/TLST- HS ngày 20 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 181/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
Hứa Văn M, sinh ngày 24 tháng 6 năm 1992 tại tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 5/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con Hứa Văn C và bà Phùng Thị P (đều đã chết); vợ, con: Không có; tiền án; Không; tiền sự: có 01 tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính số 15/QĐ-TA ngày 29/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2020 đến nay. Có mặt.
- Người chứng kiến: Anh Trần Văn H. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 10 giờ 20 phút ngày 24/7/2020 tại khu vực cổng chợ Đ, đường N, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Công an thành phố L phát hiện Hứa Văn M có biểu hiện nghi vấn về tội về ma túy đã tiến hành kiểm tra, thu giữ trong lòng bàn tay phải của Hứa Văn M 01 gói giấy nhỏ màu tím than bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của Hứa Văn M 02 bơm kim tiêm, 01 ống Novocain, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, 1.734.000 đồng, 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng, 01 chứng minh nhân dân và 01 thẻ đều trị Methdone và thu giữ 01 xe mô tô do Vi Văn Làng bỏ lại.
Tại Bản kết luận giám định số 226/KL-PC09 ngày 25/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng là chất ma túy Heroine, có khối lượng là 0,169 gam.
Tại Bản kết luận giám định số 345/KL-PC09 ngày 01/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Toàn bộ số tiền Việt Nam gồm 1.734.000 đồng trong gói niêm phong gửi giám định đều là tiền thật.
Tại Cơ quan Điều tra, bị cáo Hứa Văn M khai: Bản thân Hứa Văn M nghiện chất ma túy từ năm 2016. Khoảng 9 giờ 00 phút ngày 24/7/2020, Hứa Văn M gặp Vi Văn L là người cùng thôn đang điều khiển xe mô tô, Hứa Văn M bảo Vi Văn L cho đi nhờ xe lên thành phố L uống thuốc Methadone. Trên đường đi, Hứa Văn M bảo Vi Văn L đưa đi mua ma túy, nếu mua được sẽ cho Vi Văn L cùng sử dụng. Vi Văn L đồng ý và điều khiển xe mô tô chở Hứa Văn M đến khu vực chợ Đ. Trên đường đi, Hứa Văn M vào một hiệu thuốc mua 02 bơm kim tiêm và 01 ống Novocain cất vào túi quần bên phải đang mặc. Đến khu vực cổng chợ Đ, Vi Văn L dừng xe ngồi đợi bên ngoài, còn Hứa Văn M đi vào một quán nước ở vỉa hè gần cổng chợ Đ gặp và hỏi mua 200.000 đồng ma túy với một người phụ nữ không rõ tên tuổi, địa chỉ. Người phụ nữ đưa cho Hứa Văn M 01 gói giấy nhỏ màu tím than bên trong có chứa chất ma túy Heroin, Hứa Văn M cầm gói ma túy trong lòng bàn tay lên xe để Vi Văn L chở đi, đi được một đoạn thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang còn Vi Văn L đã bỏ chạy và để lại chiếc xe mô tô tại hiện trường.
Tại Cáo trạng số 177/CT-VKS, ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hứa Văn M về tội Tàng trữ phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai đã trình bày tại Cơ quan Điều tra, thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn luận tội: Hồi 10 giờ 20 phút ngày 24/7/2020, tại khu vực cổng chợ Đ, đường N, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Công an thành phố L đã bắt quả tang Hứa Văn M đang có hành vi tàng trữ 0,169 gam chất ma túy Heroin, mục đích để sử dụng. Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giữ 24/7/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định, 02 bơm kim tiêm, 01 ống Novocain. Trả lại bị cáo một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, số tiền 1.734.000 đồng, 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng; 01 chứng minh nhân dân và 01 thẻ đều trị Methdone mang tên Hứa Văn M. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo trình bày: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo Hứa Văn M tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Qua đó Hội đồng xét xử thấy, Hồi 10 giờ 20 phút ngày 24/7/2020, tại khu vực cổng chợ Đ, đường N, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Công an thành phố L đã bắt quả tang Hứa Văn M có hành vi tàng trữ 0,169 gam chất ma túy Heroine, mục đích để sử dụng. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Hứa Văn M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về ma túy. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tác hại của ma túy ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự an toàn xã hội nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo mới đủ để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
[4] Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính số 15/QĐ-TA ngày 29/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng, ngày 06/6/2019 chấp hành xong, chưa được xóa tiền sự, xác định bị cáo có nhân thân xấu.
[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tại phiên tòa bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân.
[7] Từ những phân tích và đánh giá nêu trên, xét thấy, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[8] Về hình phạt bổ sung: Theo kết quả xác minh, bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[9] Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành, 02 bơm kim tiêm, 01 ống Novocain là vật không có giá trị cần thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, số tiền 1.734.000 đồng, 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng không liên quan đến hành vi phạm tội, 01 chứng minh nhân dân và 01 thẻ điều trị Methdone mang tên Hứa Văn M là giấy tờ cá nhân cần trả lại bị cáo.
[10] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Hứa Văn M tại khu vực cổng chợ Đ, do không biết lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Điều tra không có căn cứ xác minh. Đối với Vi Văn L, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã tiến hành xác minh, nhưng Vi Văn L không có mặt tại địa phương, đã ra thông báo truy tìm nhưng chưa có kết quả, sẽ tiếp tục xử lý làm rõ sau. Đối với chiếc xe mô tô do Vi Văn L bỏ lại, trong quá trình Điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.
[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố L về tội danh, hình phạt đối với bị cáo và các nội dung khác là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12] Về án phí: Bị cáo bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[13] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hứa Văn M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hứa Văn M 01(một) năm 03 (ba) tháng tù.
Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 24/7/2020.
3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định; 02 bơm kim tiêm, 01 ống Novocain.
Trả lại bị cáo một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, số tiền 1.734.000 đồng, 01 ví giả da màu nâu đã qua sử dụng, 01 chứng minh nhân dân và 01 thẻ đều trị Methdone mang tên Hứa Văn M.
(Các vật chứng trên được thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L)
4. Về án phí: Bị cáo Hứa Văn M phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 177/2020/HS-ST ngày 11/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 177/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về