Bản án 177/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 177/2020/HS-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 192/2020/TLST- HS ngày 12 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2020/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 8 năm 2020 đối với Bị cáo:

Họ và tên: Tòng Văn M; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm:1975 tại: Điện Biên; Nơi cư trú: Bản T L 2, xã H M, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; Con ông: Tòng Văn M1- sinh năm 1939 và con bà: Lò Thị C- sinh năm 1947; Vợ: Quàng Thị M2- sinh năm 1982, Bị cáo có 03 người con con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2013; Tiền sự: Không; Tiền án: 02 tiền án (Ngày 08/11/2013 Tòng Văn M bị Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xử phạt 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đến ngày 21/4/2015 chấp hành xong hình phạt tù và trở về địa phương. Ngày 24/5/2017 Tòng Văn M bị Tòa án nhân dân huyện S C, tỉnh Sơn La xử phạt 42 tháng tù về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy " và đã bị áp dụng tình thiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm. Ngày 05/02/2020 Tòng Văn M chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, chưa được xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/6/2020 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 25/6/2020 Tòng Văn M một mình đi bộ từ nhà ở bản T L2, xã H M, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên đi ra xã N N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên để tìm mua Heroine sử dụng. Khi đi đến sân vận động xã N N, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, Bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Thái không biết tên địa chỉ ở đâu. Bị cáo hỏi người đàn ông đó "Có Heroine không bán cho một ít Heroine?". Người đàn ông nói "Có", nghe vậy Bị cáo lấy ra 01 tiền mệnh giá 50.000 đồng đưa cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền của Bị cáo cất vào túi quần rồi đưa cho Bị cáo 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng, miệng gói được hơ lửa hàn kín bên trong có Heroine. Bị cáo cầm lấy gói Heroine cất vào túi áo ngực bên trái đang mặc đi về nhà. Khoảng 11 giờ 45 phút cùng ngày Bị cáo đi về đến khu vực bản T L 1, xã H M, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên có gặp tổ công tác công an xã H M, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên thấy Bị cáo có biểu hiện của tội phạm ma túy nên đã yêu cầu Bị cáo đứng lại để kiểm tra, qua kiểm tra tổ công tác phát hiện tại túi áo ngực bên trái Bị cáo đang mặc 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng, miệng gói được hơ lửa hàn kín bên trong có các cục bột màu trắng nghi Heroine. Tổ công tác đã tiến hành mời người chứng kiến đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo luật định.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 25/6/2020 đã xác định: Số cục bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của Tòng Văn M có tổng khối lượng là 0,11 gam, trích 0,04 gam gửi giám định. Vật chứng còn lại là 0,07 gam.

Tại bản kết luận giám định số 612/GĐ-PC09 ngày 02/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu vật chứng thu giữ của Tòng Văn M gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine. Khối lượng là 0,11 gam Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Tại bản cáo trạng số 192/CT-VKSĐB ngày 12/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B truy tố bị cáo Tòng Văn M về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy: 0,11 gam, trích 0,04 gam gửi giám định. Vật chứng còn lại là 0,07gam.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.

Lời nói sau cùng của Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo để Bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của Bị cáo:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Tòng Văn M khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 11 giờ 30 phút, ngày 25/6/2020 Tổ công tác Công an xã H M huyện Đ B, tỉnh Điện Biên làm nhiệm vụ tại khu vực bản T L 1, xã H M, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên đã phát hiện và bắt quả tang Tòng Văn M có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,11 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên của Bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ngày 08/11/2013 Tòng Văn M bị Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xử phạt 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đến ngày 21/4/2015 chấp hành xong hình phạt tù và trở về địa phương. Ngày 24/5/2017 Tòng Văn M bị Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La xử phạt 42 tháng tù về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy " và đã bị áp dụng tình thiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "tái phạm". Ngày 05/02/2020 Tòng Văn M chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Ngày 25/6/2020 Bị cáo chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nghiêm trọng do cố ý, nên phải chịu tình tiết định khung hình phạt " tái phạm nguy hiểm" theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

…'' "2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

....

o) Tái phạm nguy hiểm.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố Bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bị oan sai.

[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, Bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật. Chính vì vậy Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của Bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bản thân Bị cáo không có tình thiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại bản T L 2, xã H M, huyện Đ B được gia đình nuôi ăn học hết lớp 02/12 thì nghỉ học ở nhà làm ruộng cùng gia đình.

Ngày 08/11/2013 Tòng Văn M bị Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xử phạt 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đến ngày 21/4/2015 chấp hành xong hình phạt tù và trở về địa phương. Ngày 24/5/2017 Tòng Văn M bị Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La xử phạt 42 tháng tù về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy " và đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm. Ngày 05/02/2020 Tòng Văn M chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Đến ngày 25/6/2020 bị bắt giữ về hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với Bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính Bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập chủ yếu dựa vào lao động sản xuất nông nghiệp ngoài ra không có thu nhập nào khác, nên không có khả năng thi hành. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án gồm: 0,11gam Heroine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,04 gam, vật chứng còn lại là 0,07 gam) là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Các vấn đề khác:

Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ do Bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Thái (không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu) Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:

Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Tòng Văn M, phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt Bị cáo: 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (25/6/2020).

2. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

* Tịch thu tiêu hủy: 0,11 gam Heroine sau khi giám định không hoàn lại 0,04 gam vật chứng còn lại 0,07gam.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/8/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ B và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ B, tỉnh Điện Biên).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm cho Bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 177/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:177/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về