TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 177/2020/HS-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 164/2020/HSST ngày 24 tháng 7 năm 2020 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 175/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 62/2020/HSST-QĐ ngày 25 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Trần Văn Ph, sinh năm 2002 tại tỉnh Kiên Giang; thường trú: Ấp H, xã L, huyện Th, tỉnh Gi; tạm trú: Khu phố 1, phường H, thị xã U, tỉnh BD; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: Lớp 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn D, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1970; chưa vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/4/2020 cho đến nay; có mặt.
2. Lữ Văn H, sinh năm 1997 tại Làng Kh, xã X, huyện X, tỉnh T H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Không; tạm trú: Khu phố 1, phường H, thị xã U, tỉnh BD; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: Lớp 02/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; con ông Lữ Văn D, sinh năm 1975 và bà Hà Thị Nh, sinh năm 1976; chưa vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/4/2020 cho đến nay; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1993; thường trú: Ấp Kinh 2, xã T, huyện V, tỉnh Gi; yêu cầu xét xử vắng mặt.
2. Ông Trần Văn D, sinh năm 1969; thường trú: Ấp H, xã L, huyện Th, tỉnh Gi; tạm trú: Khu phố 1, phường H, thị xã U, tỉnh B D; yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1976; vắng mặt.
2. Ông Hà Văn Ng, sinh năm 1999; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Các bị cáo Trần Văn Ph và Lữ Văn H là bạn với nhau và cùng tạm trú tại phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, cả hai đều là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy.
Khoảng 08 giờ 00 ngày 14/4/2020, đối tượng tên Hải (không rõ nhân thân) mang 300.000 đồng ma tuý đá đến phòng trọ của Ph tại Khu phố 1, phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để bán cho Ph. Do chưa có tiền nên Ph nói trả tiền sau thì H đồng ý và để bịch ny long miệng kéo dính bên trong chứa ma túy trên đầu tủ lạnh trong phòng trọ của Ph rồi bỏ đi.
Khoảng 11 giờ 00 cùng ngày, Ph lấy bịch ny long chứa ma túy cất vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô biển số 68N1-136.28 đến phòng trọ của bị cáo H. Bị cáo H hỏi có ma túy thì lấy ra sử dụng thì bị cáo Ph trả lời “Sáng nay Hải mới bán thiếu 01 gói ma túy giá 300.000 đồng”. Bị cáo H nói cho H hùn 100.000 đồng và Hà Văn Nguyên hùn 200.000 đồng thì Ph đồng ý. Sau đó, bị cáo H điều khiển xe mô tô biển số 68N1-136.28 chở bị cáo Ph đến phòng trọ của Ng tại nhà trọ Phan Văn D thuộc khu phố 1, phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Khi đến khu vực gần chợ Quang Vinh 3 thuộc khu phố 1, phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên thì bị Tổ tuần tra của Công an phường Hội Nghĩa dừng xe kiểm tra. Phát hiện trong túi quần của bị cáo Ph có 01 bịch nylon miệng kéo dính bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Các bị cáo Ph và H khai chất tinh thể màu trắng là ma túy đá do hai bị cáo góp tiền mua để sử dụng chung. Tổ tuần tra lập biên bản niêm Ph vật chứng và đưa các bị cáo về trụ sở Công an phường Hội Nghĩa làm việc và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ: 01 (Một) bịch ny lon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 (Một) xe mô tô biển số 68N1-136.28.
Công an phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên lập hồ sơ ban đầu và bàn giao các bị cáo cùng hồ sơ, vật chứng cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.
Tại Kết luận giám định số 212/MT-PC09 ngày 20/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Dương kết luận: 01 (Một) bịch nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể trắng thu giữ của các bị cáo Trần Văn Ph và Lữ Văn H là ma túy, có khối lượng 0,2431 gam, loại Methamphetamine.
Cáo trạng số 166/CT-VKSTU ngày 21/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Văn Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và Chương XII của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Lữ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:
- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần Văn Ph và Lữ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
- Về hình phạt:
+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 và khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn Ph từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lữ Văn H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 46 và Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: 01 (Một) bịch nylon miệng kéo dính bên trong chứa ma túy hoàn lại sau giám định, có khối lượng 0,1918 gam, loại Methamphetamine.
+ Đối với xe mô tô biển số 68N1-136.28 thuộc quyền sở hữu của ông Trần Văn Diệp. Tuy nhiên, ông D không có lỗi khi các bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội, ngày 10/6/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng trả xe mô tô trên cho ông Trần Văn D.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố.
Quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Kh trình bày: Vào ngày 10/3/2020, ông Kh đã bán chiếc xe mô tô biển số 68N1- 136.28 cho ông Trần Văn D với giá 2.000.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục sang tên.
Quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn D trình bày: Xe mô tô biển số 68N1-136.28 mà Công an thu giữ là do ông D mua của ông Kh với giá 2.000.000 đồng vào ngày 10/3/2020 nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ông D không liên quan đến việc các bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Do đó, Công an thị xã Tân Uyên đã trả lại cho ông D chiếc xe mô tô biển số 68N1-136.28.
Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
1 Về thủ tục tố tụng:
Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trên địa bàn thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với các bị cáo là đúng thẩm quyền.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Theo Kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 0311/ĐT/2020 ngày 27/4/2020 của Trung T pháp y – Sở Y tế tỉnh Đồng Nai kết luận: Độ tuổi của Trần Văn Ph là 18 tuổi 06 tháng (+/- 06 tháng) kể từ ngày giám định 27/4/2020. Như vậy, tại thời điểm phạm tội ngày 14/4/2020 bị cáo Ph chưa đủ 18 tuổi nH đến thời điểm xét xử sơ thẩm thì bị cáo Ph đã đủ 18 tuổi. Do đó, không thuộc trường hợp phải triệu tập người giám hộ và người bào chữa chỉ định tham gia phiên toà để bảo vệ quyền lợi cho bị cáo Ph.
[2] Về tình tiết định tội và định khung hình phạt: Lời khai của các bị cáo Trần Văn Ph và Lữ Văn H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, thống nhất với nhau về quá trình thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; đủ căn cứ kết luận:
Ngày 14/4/2020, tại phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương các bị cáo Trần Văn Ph và Lữ Văn H đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,2431gam ma tuý, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang.
Bị cáo Lữ Văn H khi phạm tội đã đủ 18 tuổi. Theo Kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 0311/ĐT/2020 ngày 27/4/2020 của Trung T Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Đồng Nai thì khi phạm tội bị cáo Trần Văn Ph chưa đủ 18 tuổi nH đã trên 16 tuổi.
Như vậy, khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nH vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
3 Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn và các bị cáo cùng phạm tội với vai trò thực hành, trong đó bị cáo Ph có vai trò tích cực hơn bị cáo H.
4 Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cho nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Tại thời điểm phạm tội bị cáo Trần Văn Ph chưa thành niên. Do đó, được áp dụng các điều 90, 91 và 101 của Bộ luật hình sự để xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Bị cáo Lữ Văn H là người dân tộc thiểu số và trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
5 Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6 Về căn cứ quyết định hình phạt: Xét thấy, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và vai trò của các bị cáo trong vụ án, đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7 Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 46 và Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thấy:
Đối với các vật chứng gồm: 01 (Một) bì thư niêm Ph có ký hiệu 212/PC09, bên trong chứa 0,1918 gam ma tuý, loại Methamphetamine liên quan đến việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc xe mô tô biển số 68N1-136.28 thuộc quyền sở hữu của ông Trần Văn D. Tuy nhiên, ông D không có lỗi khi các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Ngày 10/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên trả xe mô tô nêu trên cho ông D, Hội đồng xét xử thấy phù hợp pháp luật.
[8] Đối với ông Hà Văn Ng do không đủ căn cứ xác định có biết về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của các bị cáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên không khởi tố bị can là phù hợp pháp luật.
[9] Về kiến nghị: Đối tượng tên H có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Do đó, kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra xử lý H theo quy định của pháp luật.
[10] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Các điều 106, 135, 136, 268, 269, 298, 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Các điều 17, 38, 46, 47 và 58 của Bộ luật hình sự;
- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trần Văn Ph và Lữ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Về hình phạt:
2.1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các điều 17, 58, 90, 91 và 101 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn Ph 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/4/2020.
2.2. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lữ Văn H 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày 14/4/2020.
3. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm: 0,1918 gam ma tuý hoàn lại sau giám định chứa trong 01 (Một) bì thư niêm Ph ký hiệu 212/PC09 có chữ ký người bị bắt Trần Văn Ph, Lữ Văn H; người chứng kiến Nguyễn Đức Hạnh; cán bộ niêm Ph Đặng Hoài Thanh, Đại uý Nguyễn Thành Trung- Phó Công an xã và dấu đỏ của Công an xã Hội Nghĩa, TX Tân Uyên; dấu đỏ niêm Ph của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Dương theo Kết luận giám định số 212/MT-PC09 ngày 20/4/2020 của Phòng KTHS Công an Bình Dương.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/7/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thị xã Tân Uyên và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).
4. Về kiến nghị: Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra xử lý đối tượng H theo quy định của pháp luật.
5. Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo Trần Văn Ph và Lữ Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo:
6.1 Các bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
6.2 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.
Bản án 177/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 177/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về