Bản án 177/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình xin ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 177/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 73/2019/TLST-HNGĐ ngày 04-3-2019, về: “Tranh chấp hôn nhân gia đình, xin ly hôn và nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 03 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị Mỹ T, sinh năm 1997, cư trú tổ 05, ấp Phú L, xã Phú A, Phú T, An Giang.

- Bị đơn: Lê Chánh T, sinh năm 1994, cư trú tổ 05, ấp Phú L, xã Phú A, Phú T, An Giang.

Các đương sự vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện (bút lục số 07) bản tự khai (bút lục số 20) thì chị Nguyễn Thị Mỹ T khai:

- Chị với anh T thành vợ chồng vào năm 2014, được cha, mẹ đôi bên tỏ chức lễ cưới, không đăng ký kết hôn, chung sống đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, do anh T chỉ lo rượu, chè ăn chơi không lo cho vợ con, thường xuyên cự cải và ly thân từ tháng 7 năm 2017. Sau đó có nộp đơn xin ly hôn, anh T năn nỉ chung sống lại nên chị rút đơn khởi kiện và chung sống lại nhưng anh T vẫn không sữa chữa mà còn đe dọa và đánh đập chị nên bỏ trốn về nhà cha, mẹ ruột đến nay.

- Con chung có 01 đứa tên Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 15-8-2015, đang sống với chị.

- Về tài sản và nợ phải thu; phải trả: Không có.

Yêu cầu:

- Về hôn nhân: Xin ly hôn với anh T.

- Về con chung: Được tiếp tục nuôi, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. 

- Về Tài sản và nợ phải thu; phải trả: Không có, vì vậy không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Lê Chánh T đã được triệu tập lần thứ hai nhưng vắng mặt, do đó không hòa giải được, nhưng theo biên bản lấy lời khai ngày 09 tháng 4 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân thì mẹ của anh T là bà Đinh Thị Thu B khai: Anh T và chị T thành vợ, chồng vào năm 2014, có tổ chức lễ cưới, không đăng ký kết hôn, quá trình chung sống có nhiều lần xa nhau thời gian ngắn rồi chung sống lại có 01 lần cùng nhau đi làm công ở tỉnh Bình Dương thì T điện thoại về nói: “ Anh T đánh con vào mặt và đầu, trúng vào vách tường nhà”, chính thức ly thân từ tháng 11- 2018 đến nay. Tuy hai đứa không đăng ký kết hôn, có nhiều lần xa nhau, hơn nữa bà chỉ có 01 đứa con duy nhất là anh T cung sống với vợ chồng bà nên bà có ý kiến là không nên cho ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

{1} Về hình thức, thủ tục tố tụng:

[1.1] Anh T đã được triệu tập để tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần, nhưng đều vắng mặt, vì vậy đã lập các biên bản không tiến hành được phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ( bút lục các số: 27, 28, 33, 34).

{1.2} Anh T đã được triệu tập xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, vì vậy HĐXX căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

{1.3} Chị T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ( bút lục 19), vì vậy HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.

{ 2} Về nội dung:

{2.1} Quan hệ hôn nhân: Chị T và bà B đều xác nhận hôn nhân của chị T và anh T không đăng ký kết hôn, phù hợp tại công văn số 144/UBND ngày 02-4-2019 của Ủy ban nhân dân xã Phú An, Phú Tân, An Giang ( bút lục số 23 ) thể hiện: “Qua trích lục dữ liệu hộ tịch tại UBND xã, không tìm thấy dữ liệu đăng ký kết hôn giữa anh Lê Chánh T và chị Nguyễn Thị Mỹ T...” Như vậy hôn nhân giữa hai người không đăng ký kết hôn là vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định : “ Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật nầy và pháp luật về hộ tịch.

Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản nầy thì không có giá trị pháp lý”;

Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật nầy chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này” và điểm c khoản 3 Nghị Quyết số 35/2000/QH10 ngày 09- 6- 2000 của Quốc hội quy định: “Kể từ ngày 01-01-2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết nầy, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng..” Như vậy hôn nhân của anh, chị sẽ không được pháp luật bảo vệ và tuyên bố không công nhận là quan hệ vợ chồng .

{2.2} Về quan hệ con chung: Có 01 đứa tên Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 15-8-2015, đang sống với chị T, nay chị yêu cầu được tiếp tục nuôi. HĐXX xét thấy cháu T là gái, từ khi ly thân đến nay đều sống với chi T, vì vậy cần có sự chăm sóc, dạy dỗ của mẹ, do đó nên giao cháu cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng. Đáng lẽ anh T phải cấp dưỡng nuôi con theo luật định, nhưng chị T tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng, vì vậy HĐXX không xem xét.

{2.3} Về tài sản và nợ phải thu: Không có, vì vậy HĐXX không xem xét.

{2.4}Về nợ phải trả: không có, vì vậy HĐXX ghi nhận, nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị T và anh T phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

{2.5} Về án phí DSST: Chị T phải chịu án phí về việc ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự là 300.000đ {3} Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân về việc Thẩm phán, HĐXX, Thư ký và các đương sự chấp hành thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Riêng anh T được triệu tập hợp lệ 02 lần để tiến hành phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và xét xử nhưng vắng mặt, đều đó cho thấy ý thức chấp hành pháp luật chưa thật sự nghiêm. Về nội dung, yêu cầu khởi kiện của chị T là có căn cứ pháp luật đề nghị HĐXX xem xét.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ:

- Khoản 1, Điều 9; khoản 1 Điều 14; khoản 2, Điều 81; Điều 83 Luật hôn nhân – gia đình;

- Khoản 4 Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; các khoản 1, 3, Điều 228; các điều 271; 273; 278 và khoản 1, Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điểm c khoản 3 Nghị Quyết số 35/2000/QH10 ngày 09-6-2000 của Quốc hội.

 Tuyên xử:

- Không công nhận quan hệ vợ, chồng giữa chị Nguyễn Thị Mỹ T với anh Lê Chánh T.

- Chị T được tiếp tục nuôi dưỡng đứa con tên Nguyễn Thị Kim T, sinh ngày 15-8-2015. Công nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con; không ai được quyền ngăn cảng mà phải tạo điều kiện thuận lợi khi anh T đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

Việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên không cố định.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải chịu án phí về việc xin ly hôn là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng chẵn), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng chẵn), theo biên lai thu số 0005524 ngày 04-3-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị T và anh T có quyền kháng cáo thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

451
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 177/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình xin ly hôn và nuôi con

Số hiệu:177/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về