Bản án 176/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 176/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 185/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 185/2020/HSST-QĐ ngày 23 tháng 13 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2020/HSST-QĐ ngày 07/12/2020, đối với các bị cáo:

1. M, sinh năm 1999, tại Gia Lai; nơi cư trú: Làng T, xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không; dân tộc: Jarai (Jrai); giới tính: Nam; tôn giáo: Tin Lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ng (đã chết) và bà: ML; có vợ là: N; có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 12/8/2020 đến ngày 21/8/2020, sau đó thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Th (tên gọi khác: Th), sinh ngày 21 tháng 7 năm 2003, tại Gia Lai; nơi cư trú: Làng T, xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn:

6/12; dân tộc: Jarai (Jrai); giới tính: Nam; tôn giáo: Tin Lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông: A và bà: N; chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/8/2020 đến nay. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

-Người bào chữa cho bị cáo Th: Bà Nguyễn Thị Phú D, là Luật sư của Công ty luật Q – Chi nhánh tại Kon Tum; địa chỉ: Số 322 đường Trần Phú, phường Quang Trung, thành phố K, tỉnh Kon Tum. Có mặt.

-Người đại diện hợp pháp của bị cáo Th, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông A, sinh năm 1970; cư trú tại: Làng T, xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

-Bị hại: Ông Nguyễn Thạch Th, sinh năm 1988; cư trú tại: Thôn 4, xã B, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

-Người có nghĩa vụ liên quan:

1. H, sinh ngày 21/12/2004; cư trú tại: Làng Ph, xã B, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của H: Ông Ksor H, sinh năm 1979; cư trú tại: Làng P, xã B, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Anh Nguyễn Anh H, sinh năm 1982; địa chỉ: Số 765 đường P, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

3. Anh Hà Anh T, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn 4, xã B, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

-Người phiên dịch tiếng dân tộc Jrai: Ông Puih H, công tác tại Ban D tỉnh Gia Lai. Có mặt

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: M, Th và H có quan hệ quen biết nhau. Trưa ngày 19/6/2020, M, Th, H cùng uống rượu với anh Hà Anh T tại thôn 4, xã B, TP.P. Sau đó, do anh T say nên lấy xe mô tô biển số 81B2-.... của H về trước và để xe mô tô của anh T lại. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, H khởi xướng và rủ Th, M đột nhập vào nhà ông Nguyễn Thạch Th ở thôn 4, xã B, TP.P. H quay lại nói cho Th, M biết nhà ông Th không có người ở nhà; M điều khiển xe mô tô của T chở Th và H đi đến nhà ông Th. Lúc này khoảng 15 giờ ngày 19/6/2020, M đứng cảnh giới, để Th dùng kìm(kềm) điện dài khoảng 20cm, cán bọc nhựa màu đỏ (do H mang theo sẵn) cắt lưới rào B40; tiếp đó, H dùng chiếc kìm(kềm) trên cạy phá chốt cửa sau nhà ông Th, rồi cả hai đột nhập trong nhà lục tìm tài sản. Khi lục tìm trong tủ quần áo ở phòng ngủ, Th và H phát hiện có 01 túi vải nhỏ màu đỏ, bên trong đựng nữ trang bằng vàng, nên lấy túi vải này. Đối với M, trong lúc Th và H đột nhập vào nhà ông Th lục tìm tài sản, thì M điều khiển xe mô tô của anh T về trả cho anh T, rồi điều khiển xe mô tô 81B2-.... của H quay lại nhà ông Th đón Th và H về nhà M. Tại đây, H, Th và M đổ số nữ trang vàng trong túi vải ra để kiểm tra, thì thấy có 02 sợi dây chuyền (01 sợi có mặt), 01 nhẫn, 01 đôi hoa tai và 01 lắc đeo tay. Th khai: Sau đó, Th mang sợi dây chuyền bằng vàng có mặt và 01 lắc đeo tay đến bán tại hiệu vàng tên P, ở phường Y, TP.P nhưng không nhớ là hiệu vàng P nào, được 15.000.000 đồng. H khai: H mang số vàng còn lại (gồm 01 sợi dây chuyền, 01 nhẫn vàng, 01 đôi hoa tai) đến hiệu vàng P ở số ...đường P, phường Y, TP.P, bán cho người đàn ông chủ hiệu, được 14.000.000 đồng. Số tiền bán vàng mà có, Th và H chia mỗi người 8.000.000 đồng;

riêng M không được chia. Còn lại 13.000.000 đồng, Th, H và M cùng nhau tiêu xài hết.

Sau khi phát hiện bị kẻ gian đột nhập vào nhà trộm cắp vàng, ông Th đã đến Công an xã B, TP.P trình báo. Ngày 11/8/2020, Công an TP.P mời M đến làm việc và M đầu thú, khai nhận về hành vi cùng với Th, H trộm cắp vàng tại nhà ông Th. Ngày 14/8/2020, Th đến Công an TP.P đầu thú. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.P không thu hồi được số nữ trang bằng vàng mà M, Th và H trộm cắp của ông Th. Theo ông Th cung cấp, thì tài sản của ông bị chiếm đoạt gồm: 01 bộ nữ trang bằng vàng 18K, trọng lượng 1,5 cây (gồm: 01 sợi dây chuyền có mặt, 01 nhẫn, 01 đôi hoa tai, 01 lắc đeo tay) và 01 sợi dây chuyền bằng vàng 18K, trọng lượng 2,5 chỉ.

Qua định giá, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP.P kết luận: Tài sản (nữ trang bằng vàng 18K) của ông Nguyễn Thạch Th bị chiếm đoạt vào ngày 19/6/2020, có tổng giá trị: 60.375.000 đồng.

Cáo trạng số: 181/CT-VKS ngày 13 tháng 11 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố M và Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm c Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra vụ án, các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời khai thống nhất với lời khai của các bị cáo và lời khai của H tại phiên tòa hôm nay, phù hợp với nội dung của bản cáo trạng.

-Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng, và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố M và Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173; các Điều: 50; 54, 58, 65; các Điểm: b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt M: Từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng. Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173; các Điều: 50, 54, 58, 65, 91, 101; các Điểm: b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Th từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Bị hại không tiếp tục yêu cầu các bị cáo phải bồi thường dân sự nên không xét đến. Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác cung cấp đều hợp pháp.

[3] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai của các bị cáo đã khai trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và nội dung Cáo trạng số: 181/CT-VKS, ngày 13 tháng 11 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P, nên đã đủ căn cứ kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 19/6/2020, H đã khởi xướng và rủ M và Th đến nhà ông Nguyễn Thạch Th ở thôn 4, xã B trộm cắp tài sản. Được sự giúp sức về mặt tinh thần của M đứng cảnh giới, Thđã dùng kìm(kềm) điện cắt lưới rào B40, sao đó cùng H vào nhà ông Th, cạy chốt cửa sau, rồi lén lút đột nhập vào trong nhà ông Th chiếm đoạt nhiều loại nữ trang bằng vàng 18K (nhẫn, dây chuyền, lắc đeo tay, hoa tai), có tổng giá trị: 60.375.000 đồng đem đi bán lấy tiền cùng nhau tiêu xài hết.

[4] Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, M đã trên 18 tuổi, Th 16 tuổi 10 tháng 28 ngày, nên các bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đều có năng lực trách nhiệm hình sự; thực hiện một cách cố ý xâm phạm trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp về tài sản của công dân. Hành vi đó của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên phải bị xử lý hình sự.

Trong vụ án này, H đã chủ động khởi xướng rủ M và Th trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì H mới đủ 15 tuổi 05 tháng 28 ngày nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự, là tội phạm nghiêm trọng. Công an TP.P ra quyết định xử phạt hành chính đối với H bằng hình thức cảnh cáo là đúng pháp luật.

 [5] Lời bào chữa của Luật sư tại phiên tòa hôm nay đều thống nhất với quyết định truy tố của Viện Kiểm sát về tội danh, điều luật, và cùng quan điểm, đánh giá của đại diện Viện Kiểm sát về các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo Th, nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt mức án phù hợp và cho bị cáo Th được hưởng án treo.

Từ những căn cứ và nhận định tại các luận điểm [1] đến [5] nêu trên đã đủ căn cứ tuyên bố các bị cáo: M, Th phạm tội“Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 của Bộ luật Hình sự, như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[6] Các tình tiết liên quan đến quyết định hình phạt:

Các bị cáo chiếm đoạt tài sản có giá trị: 60.375.000 đồng nên đã phạm vào tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự và bị xét xử ở Điểm c Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Sau khi phạm tội, các bị cáo đã ra đầu thú và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường thiệt hại và được bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Th có hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận. Vì vậy, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các Điểm: b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về vai trò, H đã chủ động khởi xướng, chuẩn bị kìm(kềm) để cắt lưới rào B40, và trực tiếp cạy cửa nhà ông Th để cùng Th vào trộm cắp tài sản; bị cáo Th tham gia với vai trò giúp sức tích cực; M tham gia với vai trò giúp sức thứ yếu. Vì vậy, Th phải chịu mức án cao hơn mức án đối với M. Tuy nhiên, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Th mới từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nên áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Điều 91 của Bộ luật Hình sự; mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với bị cáo Th không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định theo Khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự.

Xét về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra không cao; các bị cáo đều chưa có tiền án, chưa có tiền sự, nhưng có địa chỉ cư trú rõ ràng. Bị cáo M tuy đã đủ tuổi thành niên, nhưng không có trình độ học vấn nên nhận thức còn nhiều hạn chế và thực hiện hành vi phạm tội với vai trò giúp sức thứ yếu. Các bị cáo đều có 02 tình tiết giảm nhẹ ở Khoản 1 và 02 tình tiết giảm nhẹ ở Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên Tòa án quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Do đó, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự, cho các bị cáo được hưởng án treo là phù hợp, thể hiện được tính khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội, nhưng vẫn đảm bảo được tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, gia đình các bị cáo và gia đình H đã tự nguyện bồi thường đủ số tiền 60.375.000 đồng cho bị hại, không yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường nên không xét đến.

[8] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách nhà nước.

[9] Xem xét vật chứng và hành vi có liên quan đến vụ án:

Qua điều tra xác định: Anh Hà Anh T không biết việc M sử dụng xe mô tô của mình để chở đồng phạm đi trộm cắp tài sản, nên Cơ quan điều tra không thu giữ, xử lý. Xe mô tô biển số 81B2-... mà M sử dụng phương tiện chở Th và H về nhà M sau khi Th và H trộm cắp, là của gia đình H, nhưng sau đó gia đình H đã bán lại cho người khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.P không thu giữ.

Chiếc kìm(kềm) điện dài khoảng 20cm, cán bọc nhựa màu đỏ mà Th sử dụng cắt lưới rào B40 và H sử dụng cạy chốt cửa nhà ông Nguyễn Thạch Th, sau trộm cắp tài sản xong thì Th đã vứt bỏ nhưng không nhớ vị trí, và 01 túi vải màu đỏ đựng nữ trang vàng của ông Th, thì Th đã đốt cháy sau khi lấy vàng xong nên không thu giữ được.

Quá trình điều tra không xác định được chủ hiệu vàng P là anh Nguyễn Anh H có mua số vàng nữ trang của các bị cáo hay không nên không có căn cứ xử lý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo: M và Th (tên gọi khác: Th) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

-Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173; các Điều: 50;54, 58, 65; các Điểm: b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo M 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án 31-12-2020.

-Áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 173; Khoản 1 Điều 101; Điều: 91; các Điều: 50, 54; 58; 65; các Điểm: b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Th (tên gọi khác: Th) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án 31/12/2020.

Giao bị cáo M và bị cáo Th (tên gọi khác: Th) cho Uỷ ban nhân dân xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai để giám sát, giáo dục bị cáo. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã T trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 68 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm:

-Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc các bị cáo: M và Th (tên gọi khác: Th), mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (bằng chữ: Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo:

-Căn cứ vào các Điều: 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Báo cho: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bào chữa có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án là ngày 31-12-2020. Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 176/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:176/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về