Bản án 176/2020/HNGĐ-ST ngày 14/09/2020 về việc ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 176/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ VIỆC LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 322/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 201/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Cù Thị Kh; địa chỉ: Thôn 16, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Bùi Văn X; địa chỉ: Thôn 16, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Cù Thị Kh trình bày: Chị K kết hôn với anh Bùi Văn X trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện vào năm 1990, có được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi cưới vợ chồng chung sống với nhau tại thôn 16, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến tháng 6 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng thường bất đồng quan điểm nên xảy ra đánh cãi chửi nhau. Do mâu thuẫn nên vợ chồng đã ly thân nhau từ đó đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay chị K nhận thấy cuộc sống hôn nhân giữa chị K và anh X không còn hạnh phúc nên chị K xin được ly hôn anh X. Về con chung: Chị K và anh X có 03 con chung tên Bùi Văn Hùng, sinh năm 1990; Bùi Tiến Quyết, sinh năm 1998 và Bùi Trung Chiến, sinh năm 1998, hiện các con đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Chị K trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Bùi Văn X vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại Tòa án, anh X trình bày: Anh X thừa nhận anh và chị K kết hôn với nhau vào năm 1990, có được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi cưới vợ chồng về chung sống tại thôn 16, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng, vợ chồng hòa thuận đến tháng 6 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hòa hợp, không tin tưởng lẫn nhau, do mâu thuẫn nên vợ chồng đã ly thân nhau từ đó đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Nay chị K xin ly hôn anh cũng đồng ý vì xác định tình cảm vợ chồng không còn. Về con chung: Anh thừa nhận vợ chồng có 03 con chung như chị K trình bày là đúng, hiện các con đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Anh X không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật, Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 9, 14, 15 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đề nghị Hội đồng xét xử: Về quan hệ nhân nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Cù Thị Kh và anh Bùi Văn X; Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung tên Bùi Văn Hùng, sinh năm 1990; Bùi Tiến Quyết, sinh năm 1998 và Bùi Trung Chiến, sinh năm 1998. Hiện các con đã trưởng thành và có khả năng lao động không đề nghị Tòa án giải quyết nên không đề cập xét giải quyết. Về tài sản chung: Chị Cù Thị Kh và anh Bùi Văn X không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Xét việc chung sống giữa chị Cù Thị Kh và anh Bùi Văn X từ năm 1990 mặc dù có tổ chức lễ cưới và đến nay đã có 03 con chung nhưng không có đăng ký kết hôn là quan hệ hôn nhân không hợp pháp. Tài liệu, chứng cứ thể hiện: Sau khi cưới vợ chồng chị K và anh X chung sống hòa thuận đến tháng 6 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, thường xảy ra bất đồng quan điểm, chị K và anh X đều xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ được nữa nên chị K đề nghị được ly hôn anh X và anh X cũng đồng ý ly hôn. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện: Chị K và anh X chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không thực hiện đăng ký kết hôn theo quy định, mâu thuẫn giữa chị K và anh X đã kéo dài và không còn khả năng đoàn tụ được nữa. Nay chị K có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Cù Thị Kh và anh Bùi Văn X.

[3]. Về con chung: Chị Cù Thị Kh và anh Bùi Văn X thống nhất trình bày: Chị K và anh X có 03 con chung tên Bùi Văn Hùng, sinh năm 1990; Bùi Tiến Quyết, sinh năm 1998 và Bùi Trung Chiến, sinh năm 1998. Hiện các con đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Chị Cù Thị Kh và anh Bùi Văn X thống nhất không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Cù Thị Kh phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39; Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 9, 14, 15 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, xử:

1. Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Cù Thị Kh và anh Bùi Văn X.

2. Về án phí: Chị Cù Thị Kh phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000898 ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thành phố Hải Phòng. Chị Cù Thị Kh đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 176/2020/HNGĐ-ST ngày 14/09/2020 về việc ly hôn

Số hiệu:176/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về