TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 176/2019/HS-ST NGÀY 31/12/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 170/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Điền Duy H (tên gọi khác: Không) sinh ngày 17 tháng 02 năm 2002 tại Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn ĐH, xã NP, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao dộng tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Điền Văn G và bà Vũ Thị K; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 30/9/2019, đến ngày 09/10/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “Có mặt”.
- Người bào chữa cho bị cáo Điền Duy H: Bà Ngô Thị Lý - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Ninh Bình. “Có mặt”.
- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Điền Duy H: Ông Điền Văn G, sinh năm 1972; Nơi cư trú: Thôn ĐH, xã NP, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. “Có mặt”.
2. Lê Tiến A (tên gọi khác: Không) sinh năm 1999, tại Ninh Bình; Nơi cư trú: Thôn N, xã NX, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị Bích N; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 30/9/2019, đến ngày 09/10/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay. “Có mặt”.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Điền Văn D sinh năm 1999; Nơi cư trú: Thôn VT, xã NP, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. “Vắng mặt”.
- Người làm chứng: Anh Hoàng Dũng T, anh Hoàng Quang R. “Vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Điền Duy H và Lê Tiến A là bạn bè quen biết và đều không có nghề nghiệp ổn định, thường tụ tập với những người nghiện ma túy. Để có tiền tiêu xài cá nhân, Điền Duy H và Lê Tiến A đã nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại cho những người nghiện kiếm lời. Khoảng 19 giờ ngày 30/9/2019, Điền Văn D, sinh năm 1999, trú tại thôn VT, xã NP, thành phố Ninh Bình là người nghiện ma túy có mối quan hệ quen biết từ trước với Điền Duy H. Vì biết H có bán ma túy nên D lấy điện thoại Oppo lắp sim số 082.412.2021 gọi điện đến số điện thoại 0839.300.135 của H hỏi mua 1 gam ma túy đá với giá 800.000 đồng và hẹn H mang ma túy đến nhà nghỉ HL ở phố PT, phường PK, thành phố Ninh Bình. H đồng ý bán ma túy cho D. Sau khi nghe điện thoại của D, H điều khiển xe mô tô Lisohaka biển kiểm soát 35F6-9435 đến phòng trọ của Tiến A ở thôn T, xã NN, thành phố Ninh Bình rủ Tiến A đi mua ma túy để bán cho D, Tiến A đồng ý nhưng quay sang hỏi H là tiền đâu, thì H lấy chiếc điện thoại Iphone 6 của mình ra và nói “ Tiền đây” ý H nói cắm chiếc điện thoại này lấy tiền đi mua ma túy. Lúc này có anh Hoàng Dũng T, sinh năm 1997, trú tại phố PCH, phường NT, thành phố Ninh Bình là bạn của Tiến A đến phòng trọ chơi, thấy vậy H hỏi anh T cho mượn 1.000.000 đồng và lấy điện thoại của H đưa cho anh T làm tin nói: “Mượn khoảng nửa tiếng sẽ trả”, vì biết là bạn của Tiến A nên anh T đồng ý và đưa cho H 1.000.000 đồng, H tháo sim số 0839.300.135 lắp vào máy SamSung màu trắng của Tiến A để lấy số liên lạc với Điền Văn D rồi đưa lại chiếc Iphone 6 cho anh T. Sau đó, Tiến A mượn xe mô tô Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-554.61 của bạn là anh Đào Sỹ Q chở H sang khu vực xã YB, huyện Ý Yên, tịnh Nam Định tìm mua ma túy. Trên đường đi, Tiến A vào đổ xăng hết 20.000 đồng, H cầm 180.000 đồng còn 800.000 đồng H đưa cho Tiến A cầm để mua ma túy. Cả hai bàn với nhau nếu mua được 1 gam thì chia ra làm hai túi, một túi bán cho D nhưng vẫn nói là đủ 1 gam còn một túi để lại bán kiếm lời sau. Khi sang khu vực xã YB, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định cách cầu Non Nước khoảng 1km Tiến A dừng xe và đi vào một ngôi nhà ven đường Quốc lộ 10 có cửa bằng sắt trên cánh cửa có một lỗ nhỏ, Tiến A lấy 800.000 đồng đưa qua lỗ cửa thì trong nhà có người đưa ra hai túi nilon màu trắng bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng kích thước khoảng (2 x 1,5)cm, trong đó có 01 túi có viền chỉ màu đỏ; 01 túi viền chỉ màu xanh. Sau khi mua được ma túy, Tiến A cầm trên tay và đi ra chỗ H rồi điều khiển xe chở H về thành phố Ninh Bình để bán ma túy cho D. Trên đường đi, Tiến A đưa hai túi ma túy cho H xem, H thấy có 02 túi nên nói với Tiến A không phải chia nữa đến nơi bán cho D 1 túi còn 1 túi cất đi bán sau. Khoảng 21 giờ cùng ngày, khi đến nhà nghỉ HL, Tiến A dừng xe ở bên ngoài và giấu 02 túi ma túy dưới gốc cây, còn H đi vào trong lấy điện thoại SamSung màu trắng lắp sim số 0839.300.135 gọi cho D xuống. Khi gặp D, H nói “thêm 50.000 đồng tiền ship”, D nói mang vào đây thì H ra ngoài gọi Tiến A mang 01 túi ma túy vào. Tiến A đến chỗ gốc cây nhặt 02 túi ma túy lên thì làm rơi 01 túi có viền màu xanh xuống đất ngay cạnh trước đầu xe mô tô Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-554.61 nhưng do đang vội nên Tiến A không nhặt lên mà cầm 01 gói ni lon có viền màu đỏ đi vào trong nhà nghỉ HL. Khi vào trong nhà nghỉ, H, Tiến A và D đi theo lối cầu thang lên tầng 2 của nhà nghỉ, Tiến A đưa cho D 01 túi nilon màu trắng viền màu đỏ kích thước khoảng (2x1,5)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, thấy khối lượng ma túy trong túi nilon ít không đủ 1 gam nên D nói với Tiến A và H là : “Đây mà 1 gam à” rồi đưa lại túi ma túy cho Tiến A không mua nữa. Thấy vậy, Tiến A cầm túi ma túy cất vào túi quần bên trái rồi cùng H đi xuống cầu thang để đi về. Khi H, Tiến A vừa đi xuống cầu thang thì gặp Tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – kinh tế phối hợp với Công an phường PK, thành phố Ninh Bình phát hiện bắt quả tang, thu giữ: Trong túi quần bên trái của Lê Tiến A 01 túi nilon màu trắng miệng túi có viền màu đỏ kích thước (2x1,5)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, Tiến A khai nhận đây là túi ma túy đá Tiến A cùng H mang đến để bán cho D nhưng D không mua nữa; thu của Điền Duy H số tiền 180.000 đồng và 01 điện thoại di động Samsung màu trắng; thu của Điền Văn D số tiền 400.000 đồng và 01 điện thoại di động Oppo màu đồng.
Quá trình kiểm tra, Lê Tiến A tự khai nhận còn 01 túi ma túy nữa Tiến A làm rơi ở đầu bánh xe mô tô dựng trước cửa nhà nghỉ. Tiến hành kiểm tra tại vị trí dưới đất ngay trước bánh trước xe mô tô Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-554.61 có 01 túi nilon kích thước (2x1,5)cm miệng túi có viền màu xanh bên trong có chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-554.61 và 01 xe mô tô Lisohaka biển kiểm soát 35F6-9435.
Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong các đồ vật trên, sau đó đưa Tiến A, H, D cùng vật chứng về công an phường PK, thành phố Ninh Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Cân xác định trọng lượng chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lê Tiến A có trọng lượng như sau: Túi thứ nhất thu trong túi quần của Lê Tiến A có khối lượng chất tinh thể màu trắng là 0,46 gam ký hiệu M1; Túi thứ hai thu tại vị trí dưới đất trước đầu xe mô tô Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-554.61 trước cửa nhà nghỉ HL có khối lượng chất tinh thể màu trắng là 0,245 gam ký hiệu M2. Gửi mẫu ký hiệu M1, M2 đi giám định xác định loại ma túy, trọng lượng chất ma túy.
Tại bản Kết luận giám định số 305/KLGĐ-PC09-MT ngày 04/10/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,4530 gam; M2 có khối lượng 0,2359 gam là ma túy, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma tuý thuộc bảng Danh mục II có STT 323; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Hoàn lại đối tượng giám định bao gồm: Chất dạng tinh thể màu trắng còn lại trong mẫu giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,3715 gam; M2 có khối lượng 0,1801 gam đều là ma túy, loại Methamphetamine. Tại bản cáo trạng số 174/CT-VKS ngày 27/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố Điền Duy H và Lê Tiến A ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1, khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Điền Duy H và Lê Tiến A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91 Điều 101 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Điền Duy H từ 20 đến 24 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 30/9/2019.
- Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Tiến A từ 24 đến 27 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 30/9/2019. Phạt bổ sung Lê Tiến A từ 5 đến 10 triệu đồng sung quỹ nhà nước.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:
Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Iphone thu của Điền Duy H; 01 điện thoại SamSung màu trắng thu của Lê Tiến A.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi gửi giám định cùng giấy gói ban đầu.
Bị cáo Điền Duy H là người chưa thành niên không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo Lê Tiến A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Điền Duy H xác định: Về hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” bị cáo đã khai rất rõ tại phiên tòa nên không có ý kiến gì. Xong bản thân bị cáo là người chưa thành niên; không có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ông nội bị cáo là người có công với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy đinh, tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, các bị cáo Điền Duy H và Lê Tiến A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; Phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Lời khai người làm chứng, số vật chứng thu giữ, bản kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ, đã được thẩm tra tại phiên toà. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 21 giờ ngày 30/9/2019, tại nhà nghỉ HL ở phố PT, phường PK, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình, Điền Duy H và Lê Tiến A đã có hành vi bán trái phép 0,4530 gam Methamphetamine cho Điền Văn D. Đồng thời cất giấu 0,2359 gam Methamphetamine nhằm mục đích để bán bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố các bị cáo với tội danh và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, không những đã xâm phạm trực tiếp tới sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn gây mất ổn định trật tự trị an, an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo khai biết rõ tác hại của ma tuý và sự nghiêm trị của pháp luật đối với những hành vi trái phép liên quan đến ma tuý nhưng vẫn cố tình vi phạm.
Trong vụ án có hai bị cáo tham gia, song không mang tính chất tổ chức, mà đồng phạm tính chất giản đơn. Xét về vai trò, tính chất mức độ phạm tội của hai bị cáo như sau: Bị cáo Điền Duy H là người khởi xướng và chuẩn bị tiền để đi mua ma túy về bán. Bị cáo Lê Tiến A khi được bị cáo H rủ rê, không những không can ngăn mà hưởng ứng ngay, Tiến A là người chuẩn bị phương tiện chở H đi mua ma túy về bán và Tiến A là người trực tiếp mua ma túy và trực tiếp giao ma túy cho D. Như vậy, vai trò của hai bị cáo là như nhau; vì vậy, hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là như nhau.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, Khi bị bắt quả tang, Lê Tiến A đã tự khai nhận còn cất giấu 01 túi ma túy nhằm mục đích cùng Điền Duy H bán kiếm lời nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r khoản 1 Điểu 51 của Bộ luật hình sự; Điền Duy H có ông nội, Lê Tiến A có bà ngoại là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Tính đến ngày phạm tội bị cáo Điền Duy H 17 tuổi 07 tháng 13 ngày nên áp Điều 91 của Bộ luật Hình sự về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để xử lý đối với các bị cáo.
Về nhân thân: Các bị cáo không có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt.
Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, sống có ích cho gia đình và xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Điền Duy H là người chưa thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Tiến A theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự để sung quỹ nhà nước.
[3] Các vấn đề khác:
Quá trình điều tra xác định xe mô tô Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-554.61 là xe của bà Hà Thị S, sinh năm 1970, trú tại thôn Tiền, xã NN, thành phố Ninh Bình. Ngày 30/9/2019, bà S cho con trai là anh Đào Sỹ Q mượn để đi chơi, khi đến phòng trọ của Tiến A, anh Q cho Tiến A mượn xe để đi có việc còn 01 xe mô tô Lisohaka biển kiểm soát 35F6-9435 là của ông Điền Văn G, sinh năm 1972, trú tại thôn ĐH, xã NP, thành phố Ninh Bình. Ngày 30/9/2019, ông G cho Điền Duy H mượn xe để làm phương tiện đi lại. Việc Tiến A và H sử dụng hai phương tiện trên để đến rủ đi mua ma túy anh Q, bà S và ông G không biết nên không vi phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã trả lại cho bà S chiếc xe mô tô Yamaha Exciter biển kiểm soát 35B2-554.61 và trả lại cho ông G chiếc xe mô tô Lisohaka biển kiểm soát 35F6-9435 là có căn cứ, đúng quy định.
Đối với chiếc điện thoại Oppo màu đồng thu giữ của Điền Văn D quá trình điều tra xác định là điện thoại của anh Đinh Văn Y, sinh năm 1969, trú tại phố H, thị trấn YN, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ngày 29/9/2019, điện thoại của Điền Văn D bị hỏng nên anh Y cho D mượn điện thoại để liên lạc cá nhân. Việc D sử dụng điện thoại để liên lạc mua bán ma túy anh Y không biết nên không vi phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Y là có căn cứ, đúng quy định.
Đối với số tiền 400.000 đồng thu giữ của Điền Văn D quá trình điều tra xác định là tiền của chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1998, trú tại xóm M, xã VH, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa đưa cho D để nhờ D mua hộ mỹ phẩm không liên quan đến vụ án. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị B là có căn cứ.
Anh Hoàng Dũng T, sinh năm 1997, trú tại phố PCH, phường NT, thành phố Ninh Bình đã tự giao nộp cho cơ quan Cảnh sát điều tra 01 điện thoại di động Iphone 6 do Điền Duy H gửi làm tin để mượn tiền của anh T ngày 30/9/2019. Anh T không biết việc H và Tiến A cầm điện thoại để lấy tiền đi mua ma túy nên không vi phạm. Số tiền 180.000 đồng thu giữ của Điền Duy H là tiền H cầm chiếc điện thoại cho anh T mà có không liên quan đến vụ án cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T số tiền 180.000 đồng. Đối với số tiền 820.000 đồng còn thiếu do H và Tiến A đã sử dụng để đi mua ma túy anh T không yêu cầu Điền Duy H và Lê Tiến A phải bồi hoàn và không có liên quan đến vụ án nên không xem xét giải quyết.
Về nguồn gốc ma túy: Lê Tiến A và Điền Duy H khai nhận mua qua một lỗ nhỏ trên cánh cửa bằng sắt của một ngôi nhà ven đường Quốc lộ 10 cách cầu Non Nước khoảng 1km thuộc xã YB, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Nhưng Tiến A không biết người bán là ai ở đâu. Địa chỉ cụ thể ngôi nhà Tiến A và H không xác định được nên không có căn cứ xác minh làm rõ.
Đối với Điền Văn D là người đã gọi điện hỏi mua ma túy của Lê Tiến A và Điền Duy H nhưng sau khi Lê Tiến A đến đưa số ma túy cho Duy, Duy thấy ma túy ít không đủ số lượng nên không mua nữa; tiến hành xét nghiệm Điền Văn D dương tính với ma túy, Duy khai thường xuyên mua ma túy của một nam thanh niên đứng ở ven đường quốc lộ 10 thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định và sử dụng luôn tại đây. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình chuyển toàn bộ tài liệu có liên quan mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy của Điền Văn D cho Công an huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định để tiếp tục điều tra xác định hành vi sai phạm và có biện pháp xử lý đối với D theo thẩm quyền là đúng quy định.
[4] Về xử lý vật chứng:
Chiếc điện thoại Iphone 6 của Điền Duy H và chiếc điện thoại SamSung màu trắng thu giữ của Lê Tiến A các bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán ma túy cần tịch thu sung quỹ nhà nước Số ma túy còn lại sau khi gửi giám định là vật cấm lưu hành cùng giấy gói ban đầu cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Về án phí: Bị cáo Điền Văn D là người chưa thành niên không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo Lê Tiến A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật
[6] Các bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp cho bị cáo H có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ:
Khoản 1, Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Điền Duy H; Khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Tiến A.
Tuyên bố các bị cáo Điền Duy H và Lê Tiến A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Điền Duy H 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 30/9/2019.
Xử phạt bị cáo Lê Tiến A từ 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ 30/9/2019. Phạt bổ sung bị cáo Lê Tiến A 5.000.000 (Năm triệu) đồng sung quỹ nhà nước.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự ; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:
Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Iphone thu của Điền Duy H;
01 điện thoại SamSung màu trắng thu của Lê Tiến A.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi gửi giám định cùng giấy gói ban đầu.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/12/2019).
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Điền Duy H; buộc bị cáo Lê Tiến A phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cho bị cáo H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án 31/12/2019; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 176/2019/HS-ST ngày 31/12/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 176/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về