TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 176/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 20 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 303/2018/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 210/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 105/2018/QĐST-HNGĐ ngày 03/8/2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1989. (có mặt)
Địa chỉ: Ấp N, xã B, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Tạm trú: Ấp B, xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Anh Nguyễn Bảo C, sinh năm 1988. (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã K, huyện Đ, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn ngày 29 tháng 3 năm 2018 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng N trình bày: Chị và anh C chung sống với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2011 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên gây gổ, anh C không quan tâm cuộc sống gia đình, nên chị và anh C đã ly thân từ tháng 8 năm 2017 đến nay. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị xin ly hôn với anh Nguyễn Bảo C.
Về con chung: Quá trình chung sống, chị và anh C có 01 con chung tên Nguyễn Minh H, sinh ngày 15/02/2011 (con đang sống với chị). Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.
Tại lời trình bày của anh Nguyễn Bảo C: Anh và chị N có tìm hiểu nhau thời gian 03 năm, sau đó chung sống vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, anh và chị N chung sống hạnh phúc đến tháng 06 năm 2016 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân là do chị N không quan tâm đến con và thường xuyên cải nhau, nên anh và chị N xa nhau từ tháng 02 năm 2018 cho đến nay.
Về con chung: anh và chị N chung sống có một con chung tên Nguyễn Minh H, sinh ngày 15/02/2011, hiện nay do chị N trực tiếp nuôi dưỡng.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Trong thời gian chung sống, anh và chị N chung sống có nợ một số người, nhưng hiện nay anh không biết rõ tên họ địa chỉ cụ thể khoảng 30.000.000đồng, anh sẽ cung cấp tên họ địa chỉ sau.
Nay chị N xin ly hôn, anh không đồng ý, anh muốn đoàn tụ để nuôi con. Nếu tòa án có căn cứ cho ly hôn anh xin được nuôi con, không yêu cầu chị N cấp dưỡng.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng anh C vẫn vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Hồng N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Bảo C; anh Nguyễn Bảo C có hộ khẩu thường trú tại ấp T, xã K, huyện Đ, tỉnh Long An và hiện đang có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Bảo C đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh C chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
[3]. Thấy rằng, trong quá trình chung sống, chị N cho rằng do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên gây gổ, anh C ham mê cờ bạc, nên chị và anh C đã xa nhau từ tháng 8 năm 2017. Đối với anh Nguyễn Bảo C, tại bản tự khai anh cho rằng chị N không quan tâm đến con cái và thường xuyên cãi nhau, nên anh và chị N xa nhau từ tháng 02 năm 2018 cho đến nay, Nay chị N xin ly hôn anhkhông đồng ý anh xin đoàn tụ để nuôi con. Tuy nhiên trong quá trình Tòa án mời giải quyết và tại phiên tòa hôm nay, anh C vẫn vắng mặt, chứng tỏ anh không có thiện chí để hàn gắn trong khi thời gian xa nhau đã lâu.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng đời sống chung vợ chồng của anh chị đã không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh C là có căn cứ, phù hợp với Điều 56Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Về con chung: Chị N và anh C có 01 con chung tên Nguyễn Minh H, sinh ngày 15/02/2011. Từ khi ly thân đến nay, chị N là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Đối với anh C mặc dù tại phiên tòa anh vắng mặt, nhưng tại bản tự khai anh yêu cầu được nuôi con.
Xét thấy, từ khi hai anh chị xa nhau đến nay, chị N là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của con chung. Hơn nữa, tại bản tự khai Nguyễn Minh H, cháu H cũng có nguyện vọng sống với chị N. Do đó, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển ổn định cho con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng cần giao con chung cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Tại phiên tòa, chị N không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về tài sản chung: Chị N cho rằng không có, đối với anh C vắng mặt, nhưng tại bản tự khai anh C cho rằng không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về nợ chung: Chị N trình bày không có. Riêng anh C vắng mặt, nhưng tại bản tự khai anh C cho rằng trong thời gian anh và chị N chung sống có nợ số tiền khoản 30.000.000đồng, nhưng anh C không cung cấp được họ tên địa chỉ của các chủ nợ để Tòa án xem xét, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết là phù hợp.
[7]. Về án phí: Chị N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng N đối với anh Nguyễn Bảo C về việc “Ly hôn”.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng N được ly hôn với anh Nguyễn Bảo C.
- Về con chung: Chị N được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Minh H, sinh ngày 15/02/2011 (chị N đang nuôi). Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị N không có yêu cầu.
Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0002485 ngày 29/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành. Chị N không phải nộp tiếp.
Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 176/2018/HNGĐ-ST ngày 20/08/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 176/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về