Bản án 175/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 175/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 164/2020/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Kiều Ngọc L; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1971 tại Hòa Bình; Nơi cư trú: ấp 4, xã X, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Cha là ông Kiều Ngọc Đổng (đã chết); Mẹ là bà Nguyễn Thị Mùi; Vợ: Phạm Thị Hiền (đã chết vào năm 2013); Con: Có 02 người con, sinh năm 2000 và sinh năm 2013;Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại ( bị cáo có mặt tại phiên tòa) * Bị hại: Ông Hồ A S sinh năm 1974 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp N, xã T, huyê n B, tỉnh Đồng Nai.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Thái Văn O, sinh năm 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã X, huyê n L, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Kiều Ngọc L, sinh năm 1971, cư trú tại ấp 4, xã X, huyện L, tỉnh Đồng Nai . Do biết trong khuôn viên Công ty “Echo” thuộc ấp 4, xã X, huyện L, tỉnh Đồng Nai có một giàn khoan giếng ngưng không hoạt động từ cuối tháng 7/2020, không có người trông coi nên L nảy sinh ý định lén lút lấy trộm trụ sắt khoan giếng đem bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện ý định, khoảng 02 giờ ngày 01/8/2020, L lén lút trèo qua hàng rào Công ty “Echo” đi đến vị trí giàn khoan giếng lấy trộm 02 trụ sắt khoan giếng, mỗi trụ sắt dài 2,5m, đường kính 0,08m, màu nâu đen, hai đầu có ren xoắn, trọng lượng 28kg/trụ sắt rồi đem cất giấu ở sát tường rào phía ngoài Công ty “Echo”. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đen (không có biển số) của L đi đến vị trí cất giấu 02 trụ sắt khoan giếng rồi chở đến vựa mua bán phế liệu của ông Thái Văn O, sinh năm 1968, thuộc ấp 2, xã X, huyện L, tỉnh Đồng Nai và L nói với ông O “Mấy cây sắt ở Công ty “Echo”, người ta bỏ không xài nữa”. Do L đã nhiều lần bán phế liệu cho ông O nên không biết đây là tài sản do L trộm cắp mà có nên đã thỏa thuận mua với giá 5.000 đồng/01kg sắt, (mỗi trụ sắt nặng 28kg, Lân bán được số tiền 280.000 đồng). Đến khoảng 02 giờ ngày 02/8/2020, cũng thủ đoạn như trên, L tiếp tục lén lút lấy 06 trụ sắt khoan giếng, mỗi trụ sắt dài 2,5m, đường kính 0,08m, màu nâu đen, hai đầu có ren xoắn, trọng lượng 28kg/trụ sắt rồi đem cất giấu sát tường rào phía ngoài Công ty “Echo”. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày 02/8/2020, L điều khiển xe mô tô nêu trên đến địa điểm cất giấu 06 trụ sắt và chở mỗi lần 02 trụ sắt đến vựa ve chai của ông O bán được số tiền 840.000 đồng. Đến khoảng 08 giờ ngày 04/8/2020, ông Hồ A S, sinh năm 1974, cư trú tại số 83/1, ấp N, xã T, huyện Bom, tỉnh Đồng Nai, là chủ giàn khoan giếng đến Công ty “Echo” kiểm tra thì phát hiện bị mất trộm 08 trụ sắt khoan giếng nên đã đến Công an trình báo.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 69/KL-HĐĐG ngày 07/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân huyện Xuân Lộc kết luận: Giá trị sử dụng còn lại của tài sản theo yêu cầu định giá số 226/ĐTTH ngày 05/8/2020 của Công an huyện Xuân Lộc là: 5.765.000 đồng (năm triệu bảy trăm sáu mươi ngàn đồng).

* Vật chứng vụ án thu giữ:

- 08 (tám) trụ sắt khoan giếng, mỗi trụ sắt dài 2,5m, đường kính 0,08m, màu nâu đen, hai đầu có ren xoắn, trọng lượng 28kg/trụ sắt.

- 01 (một) xe mô tô Wave màu đen (không có biển số).

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 08 (tám) trụ sắt khoan giếng, mỗi trụ sắt dài 2,5m, đường kính 0,08m, màu nâu đen, hai đầu có ren xoắn, trọng lượng 28kg/trụ sắt . Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã trao trả cho bị hại là anh Hồ A S theo quy định.

* Trách nhiệm dân sự:

- Anh Hồ A S đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì về dân sự, đồng thời có đơn bãi nại cho Kiều Ngọc L.

- Ông Thái Văn O là người đã mua các trụ sắt do Kiều Ngọc L đem đến bán đã tự nguyện giao nộp lại các trụ sắt cho Cơ quan Công an và cũng không có yêu cầu gì về dân sự.

Tại bản cáo trạng số 175/CT-VKSXL ngày 26 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc đã truy tố bị cáo Kiều Ngọc L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc tham gia phiên tòa phát biểu giữ nguyên quan điểm truy tố theo bản cáo trạng. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Kiều Ngọc L từ 06 – 08 tháng, nhưng cho hưởng án án treo, thời gian thử thách là 01 năm đến 01 năm 04 tháng. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung công 01 (một) xe mô tô Wave màu đen (không có biển số, không rõ nguồn gốc và không có giấy tờ hợp pháp). Đây là phương tiện mà Kiều Ngọc L đã sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Kiều Ngọc L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án. Bị cáo Kiều Ngọc L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 08 trụ sắt khoan giếng của ông Hồ A S. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 5.765.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ.

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi của bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; t hành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả cho bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại; hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ chết vào năm 2013, một mình bị cáo nuôi con nhỏ là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ nghiêm để răn đe bị cáo.

[6] Về trách nhiê m dân sự:

Ông Hồ A S đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Ông Thái Văn O là người đã mua các trụ sắt do Kiều Ngọc L đem đến bán đã tự nguyện giao nộp lại các trụ sắt cho Cơ quan Công an và cũng không có yêu cầu bồi thường về dân sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung công 01 (một) xe mô tô Wave màu đen (không có biển số, không rõ nguồn gốc và không có giấy tờ hợp pháp). Đây là phương tiện mà Kiều Ngọc L đã sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.

[8] Về án phí: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Kiều Ngọc L phạm tội “Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Kiều Ngọc L 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm, tính kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Kiều Ngọc L cho Ủy ban nhân dân xã Xuân Hòa, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu sung công 01 (một) xe mô tô Wave màu đen (không có biển số, không rõ nguồn gốc và không có giấy tờ hợp pháp).

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc.)

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Kiều Ngọc L phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 175/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:175/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về