Bản án 175/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 175/2020/HS-ST NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 22 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 169/2020/HSST ngày 03/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1225/2020/QĐXXST-HS ngày 19/11/2020 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa số 1385/TB-TA ngày 02/12/2020 đối với bị cáo:

Trương Quốc T, sinh ngày 24/01/1991 tại Tp. Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 7x Đường B, Phường P, Quận M, Tp. Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: 7x Đường B, Phường P, Quận M, Tp. Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Nhân viên bán hàng; Trình độ học vấn:

9/12; con ông Trương Văn H5 (sinh năm 1954) và bà Mai Thị B1 (sinh năm 1951); Bị cáo là con thứ 02 trong gia đình có 02 người con; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: 01 (Ngày 30/11/2018, bị Tòa án nhân dân Quận 7 xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 168/2018/HSST. Ngày 21/5/2019, chấp hành xong hình phạt tù. Chưa xóa án tích).

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/8/2020 cho đến nay (Có mặt).

- Bị hại: Bà Võ Thị Thu H, sinh năm 1997 (Vắng mặt);

Địa chỉ: 4x Đường Đ, Phường HN, quận B, Tp.Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn T7, sinh năm 1983 (Vắng mặt);

Địa chỉ: 7x Đường P, Phường B1, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ông Đinh Nhật D, sinh năm 1995 (Có mặt);

Địa chỉ: 6x Đường T, Phường MS, Quận B1, Tp. Hồ Chí Minh.

3. Ông Trương Văn M, sinh năm 1967 (Vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp x, xã L, huyện C, tỉnh Long An.

4. Bà Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1988 (Vắng mặt);

Địa chỉ: CX Đường N, xã B, huyện B, Tp. Hồ Chí Minh.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Thành TR, sinh năm 1988 (Vắng mặt);

Địa chỉ: 6x Trần Quang Khải, phường T, Quận M, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ông Huỳnh Quốc H7, sinh năm 1986 (Vắng mặt);

Địa chỉ: 3x Bến Vân Đồn, Phường MH, Quận B1, Tp. Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 04/3/2020, Trương Quốc T điều khiển xe mô tô biển số 62V2-19xx đến chung cư N, Phường M, Quận B để tìm bạn mượn tiền. Tại đây T gặp 01 người bạn tên KT (không rõ lai lịch) đang đứng nói chuyện với “Bake” (không rõ lai lịch). KT giới thiệu Bake cho T và gợi ý T cùng Bake tìm người sơ hở để chiếm đoạt tài sản. T đồng ý rồi điều khiển xe mô tô biển số 62V2-19xx về chung cư 152/11 Nguyễn Thị Tần, Phường 2, Quận 8 cất xe sau đó T điều khiển xe mô tô biển số 59L3-016.61 (Bake giao cho T) chở Bake đi lòng vòng để tìm cơ hội trộm cắp tài sản. Khoảng 04 giờ 20 phút ngày 04/3/2020, T điều khiển xe đến hẻm số 15B Đường L, phường B, Quận M thì phát hiện xe mô tô hiệu Honda SH Mode biển số 66M1-293.89 của bà Võ Thị Thu H đang dựng trước nhà số 15B/20 Đường L, phường B, Quận M có khóa cổ xe nhưng không có người trông coi nên T dừng xe để “Bake” đi bộ đến dùng đoản bẻ khóa lấy trộm xe mô tô trên rồi điều khiển xe cùng T bỏ chạy. Khi cả hai đến trước nhà số 12x Đường L, phường B, Quận M thì ông Nguyễn Thành TR (là dân phòng phường B, Quận M) và ông Huỳnh Quốc H7 (là người dân) phát hiện chặn lại nên T và “Bake” bỏ xe, chạy trốn. Sau đó, ông Trg và ông H7 báo Công an phường B, Quận M đến hỗ trợ, phát hiện T đang trốn trong nhà 10x Đường L, phường B, Quận M, Tp. Hồ Chí Minh nên bắt giữ và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 1 để xử lý. Riêng đối tượng “Bake” đã trốn thoát.

Qua điều tra truy xét ngày 20/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã tiến hành bắt giữ Trương Quốc T.

Tại Kết luận định giá tài sản số 60/KL-HĐĐGTS ngày 18/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 1 kết luận 01 xe mô tô hiệu Honda SH Mode biển số 66M1-293.89 trị giá 33.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Trương Quốc T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời khai của Tuân phù hợp với các tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra thu thập.

Đối với đối tượng tên Bake (không rõ lai lịch) trực tiếp chiếm đoạt xe mô tô Honda SH Mode biển số 60M1-293.89 của bà Hiền và đối tượng KT (không rõ lai lịch) là người đề xướng việc đi trộm cắp tài sản, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch của 02 đối tượng trên nên Công an Quận 1 tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau.

Vật chứng vụ án gồm có:

- 01 xe mô tô hiệu Honda SH Mode biển số 66M1-293.89 do bà Võ Thị Thu H đứng tên đăng ký (đã thu hồi và trả lại cho người bị hại bà Võ Thị Thu H, bà Hiền không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự).

- 01 xe mô tô hiệu Honda Blade biển số 59L3-016.61, số khung: RLHJA3628EY131665, số máy: JA36E-0229351. Qua xác minh biển số 59L3-016.61 là của 01 xe mô tô hiệu Honda Vario do ông Nguyễn Văn T7 (Sinh năm: 1983, HKTT:

11 lô 10 Đường P, Phường B1, Quận T) đứng tên đăng ký mua vào ngày 07/01/2020.

Ông T7 cho biết khoảng tháng 02/2020 xe mô tô hiệu Honda Vario trên đã bị kẻ gian lợi dụng sơ hở chiếm đoạt tại nhà số 7x Đường P, Phường B1, Quận T (ông T7 không đến Cơ quan CSĐT để trình báo về vụ việc trên). Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 1 đã trả lại biển số 59L3-016.61 cho ông T7.

Xác minh theo số khung: RLHJA3628EY131665, số máy: JA36E-0229351 do ông Đinh Nhật D (Sinh năm: 1995, HKTT: Ấp H, xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre) đứng tên đăng ký với biển số 71B2-923.xx. Ông D khai chiếc xe trên bị mất trộm tại trước nhà 1x đường T, Phường MB, Quận B1 vào ngày 01/3/2020. Sau khi phát hiện mất xe, ông D có đến Công an Phường MB, Quận B1 để trình báo nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã thông báo và bàn giao xe cho Cảnh sát Điều tra Công an Quận B1 để điều tra thụ lý theo thẩm quyền.

- 01 cây kìm bằng kim loại màu đen; 01 khóa (10-14) màu đen; 01 dụng cụ mở khóa màu trắng dán băng keo đen; 01 bộ tua vít có 08 đầu màu trắng; 03 đầu đoản dẹp (là dụng cụ sử dụng để bẻ khóa xe).

Ngoài ra, thu giữ của Trương Quốc T:

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 150 số seri: 354478090125105 (là tài sản của Trương Quốc T).

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 62V2-19xx, số khung: RLHHC12169Y232185, số máy: HC12E1433059. Qua xác minh do ông Trương Văn M (Sinh năm: 1967, HKTT: Ấp 3, xã L, huyện C, tỉnh Long An) đứng tên đăng ký. Khoảng tháng 4/2019, ông Minh bán xe (không có giấy tờ mua bán không làm thủ tục sang tên đổi chủ) cho 01 người đàn ông (không rõ lai lịch). Trương Quốc T khai chiếc xe mô tô trên là mượn của bà Nguyễn Ngọc L. Bà Loan khai được 01 người tên Chí (không rõ lai lịch) cho vào khoảng đầu năm 2019 để sử dụng, việc Tuân mượn xe để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bà Loan không biết.

- 01 áo thun tay dài, màu đen có chữ SUPPER DRY, 01 quần jean dài màu xanh (là trang phục Trương Quốc T mặc khi thực hiện hành vi phạm tội).

- 01 phiếu giữ xe số 477192.

Tất cả hiện đang được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 tạm giữ.

Tại bản Cáo trạng số 171/CT-VKS ngày 28 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trương Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trương Quốc T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở xác định khoảng 04 giờ 20 phút, ngày 04/3/2020, tại trước nhà 10x Đường L, phường B, Quận M, bị cáo Trương Quốc T đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 59L3-016.61 chở đối tượng tên Bake (không rõ lai lịch) lợi dụng sơ hở lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Honda SH Mode biển số 66M1-293.89 của bà Võ Thị Thu H, trị giá 33.000.000 đồng. Bị cáo Tuân đóng vai trò là người giúp sức, cảnh giới để cho đối tượng tên Bake trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Do đó, hành vi của bị cáo T đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng vì động cơ tư lợi cá nhân, không muốn lao động mà vẫn có tiền tiêu xài nên vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt tù về tội trộm cắp tài sản nhưng bị cáo vẫn không lấy đó làm bài học để tự cải tạo mình trở thành người công dân có ích cho xã hội mà còn tiếp tục phạm tội. Do đó, cần áp dụng mức án nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng răn đe đối với bản thân bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Căn cứ vào tiền án của bị cáo, nhận thấy ngày 30/11/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận 7 xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 168/2018/HSST. Ngày 21/5/2019, chấp hành xong hình phạt tù. Chưa xóa án tích. Ngày 04/3/2020, bị cáo lại tiếp tục có hành vi phạm tội nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhận thấy bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nên khi lượng hình Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết đã quy định nêu trên để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Võ Thị Thu H không có yêu cầu gì về bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô hiệu Honda SH Mode biển số 66M1-293.89 đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu là bị hại bà Võ Thị Thu H.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Blade biển số 59L3-016.61, số khung: RLHJA3628EY131665, số máy: JA36E-0229351. Qua xác minh biển số 59L3-01661 là của 01 xe mô tô hiệu Honda Vario do ông Nguyễn Văn T7 (Sinh năm: 1983, HKTT: 11 lô 10 Đường P, Phường B1, Quận T) đứng tên đăng ký mua vào ngày 07/01/2020. Ông T7cho biết khoảng tháng 02/2020 xe mô tô hiệu Honda Vario trên đã bị kẻ gian lợi dụng sơ hở chiếm đoạt tại nhà số 769/44/22A Đường P, Phường B1, Quận T (ông T7 không đến Cơ quan CSĐT để trình báo về vụ việc trên). Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 1 đã trả lại biển số 59L3-01661 cho ông T7.

Xác minh theo số khung: RLHJA3628EY131665, số máy: JA36E-0229351 do ông Đinh Nhật D (Sinh năm: 1995, HKTT: Ấp H, xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre) đứng tên đăng ký với biển số 71B2-923.xx. Ông D khai chiếc xe trên bị mất trộm tại trước nhà 1x đường T, Phường MB, Quận B1 vào ngày 01/3/2020. Sau khi phát hiện mất xe, ông D có đến Công an Phường MB, Quận B1 để trình báo nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã thông báo và bàn giao xe cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận B1 để điều tra thụ lý theo thẩm quyền. Tại phiên tòa, ông D có yêu cầu sau khi cơ quan có thẩm quyền điều tra xong thì xem xét trả lại chiếc xe trên cho ông D. Do đo, Hội đồng xét xử nhận thấy cần tiếp tục giao cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận B1 xem xét xử lý chiếc xe nêu trên là có cơ sở.

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 62V2-19xx, số khung: RLHHC12169Y232185, số máy: HC12E1433059. Qua xác minh do ông Trương Văn M (Sinh năm: 1967, HKTT: Ấp 3, xã L, huyện C, tỉnh Long An) đứng tên đăng ký. Khoảng tháng 4/2019, ông M bán xe (không có giấy tờ mua bán không làm thủ tục sang tên đổi chủ) cho 01 người đàn ông (không rõ lai lịch). Trương Quốc T khai mượn chiếc xe trên của bà Nguyễn Ngọc L. Bà Lkhai được 01 người tên Chí (không rõ lai lịch) cho vào khoảng đầu năm 2019 để sử dụng, bà Loan không biết Tuân mượn xe để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, cần thiết đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn nhất định, hết thời hạn mà không tìm ra chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại chiếc xe nêu trên cho bà L là người đang quản lý, sử dụng. Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác theo pháp luật tố tụng dân sự.

- 01 cây kìm bằng kim loại màu đen; 01 khóa (10-14) màu đen; 01 dụng cụ mở khóa màu trắng dán băng keo đen; 01 bộ tua vít có 08 đầu màu trắng; 03 đầu đoản dẹp thu giữ của Trương Quốc T đều là dụng cụ sử dụng để bẻ khóa xe, xét thấy liên quan đến việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy do không có giá trị sử dụng.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 150 số seri: 354478090125105 thu giữ của Trương Quốc T, xét thấy không liên quan đến vụ án nên trả lại cho Trương Quốc T nhưng trước mắt cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

- 01 áo thun tay dài, màu đen có chữ SUPPER DRY, 01 quần jean dài màu xanh là trang phục Trương Quốc T mặc khi thực hiện hành vi phạm tội, xét thấy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 phiếu giữ xe số 477192 thu giữ của Trương Quốc T là phiếu giữ xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 62V2-19xx do bãi xe chung cư 152/11 N, Phường H, Quận T cấp cho T khi T gửi xe tại đây, xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 đồng, bị cáo chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trương Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt Trương Quốc T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/8/2020.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tiếp tục giao 01 xe mô tô hiệu Honda Blade số khung: RLHJA3628EY131665, số máy: JA36E-0229351 do ông Đinh Nhật D (Sinh năm: 1995, HKTT: 510A/2 Ấp 2, xã Sơn Đông, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre) đứng tên đăng ký với biển số 71B2-923.xx cho Cảnh sát Điều tra Công an Quận B1 để điều tra thụ lý theo thẩm quyền.

+ Tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn 30 ngày đối với đối với 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 62V2-19xx, số khung: RLHHC12169Y232185, số máy: HC12E1433059, hết thời hạn mà không tìm ra chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại cho bà Nguyễn Ngọc L. Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác theo pháp luật tố tụng dân sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 cây kìm bằng kim loại màu đen, 01 khóa (10-14) màu đen, 01 dụng cụ mở khóa màu trắng dán băng keo đen; 01 bộ tua vít có 08 đầu màu trắng, 03 đầu đoản dẹp, 01 áo thun tay dài, màu đen có chữ SUPPER DRY, 01 quần jean dài màu xanh, 01 phiếu giữ xe số 477192.

+ Trả lại cho Trương Quốc T 01 điện thoại di động hiệu Nokia 150 số seri:

354478090125105 nhưng trước mắt cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

(Theo Phiếu nhập kho đồ vật tài liệu số 73/20-PNK ngày 16/4/2020 và số 55- 20/PNK ngày 16/4/2020 của Công an Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh).

- Áp dụng Điều 135; 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trương Quốc T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo Trương Quốc T có quyền kháng cáo bản án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đinh Nhật D có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại bà Võ Thị Thu H có quyền kháng cáo bản án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T7, ông Trương Văn M, bà Nguyễn Ngọc L có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

- Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 175/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:175/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về