TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁ THƯỚC, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 175/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 141/2020/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2020 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2020/QĐST- HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Vũ Thị Ng - Sinh n¨m: 1971 Hé khÈu thường tró: Phố 2, Lâm Xa, thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt. ( Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 28/08/2020).
- Bị đơn: Anh Đỗ Viết C - Sinh năm: 1968 HKTT: Phố 2, Lâm Xa, thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hãa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 05/08/2020 chị Vũ Thị Ng trình bày: Chị với anh Đỗ Viết C đến với nhau trên cơ sở tự nguyện từ năm 1992, đăng ký kết hôn vào năm 2002 tại UBND xã Lâm Xa, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Vợ chồng chung sống với nhau đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh C suốt ngày uống rượu say xỉn rồi chửi bới, đánh đập, hành hạ chị. Hai bên gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng anh C vẫn không thay đổi. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục tình trạng hôn nhân như hiện nay, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Viết C.
- Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng chị có 03 con chung. Cháu đầu tên là Đỗ Phi Nga – sinh năm 1993; cháu thứ hai là Đỗ Như Quỳnh – sinh năm 1995 và cháu thứ ba là Đỗ Anh Quân – sinh ngày 07/4/2004. Hai cháu Nga và Quỳnh đã thành niên nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn cháu Anh Quân chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản: Chị Ng không yêu cầu Toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo thụ lý và triệu tập hợp lệ anh Đỗ Viết C đến Tòa án để làm bản tự khai nhưng anh C vắng mặt nên không có lời khai của anh C trong hồ sơ vụ án. Tòa án cũng đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho các bên đương sự, nhưng anh C không có mặt nên tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh C theo khoản 3 điều 210 BLTTDS. Chị Ng đề nghị không tiến hành hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 4 điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh C cũng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, chị Ng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ điều 227, điều 228, điều 238 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Ng, anh C.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Tòa án đã tuân thủ đúng quy định về trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX áp dụng điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Ng được ly hôn anh C. Về con cái giao cháu Đỗ Anh Quân – sinh ngày 07/4/2004 cho chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản: chị Ng không yêu cầu giải quyết nên miễn xét. Về án phí: Chị Ng chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Ng và anh Đỗ Viết C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn vào năm 2002 tại UBND xã Lâm Xa, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các điều 9, 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 điều 28 BLTTDS. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn.
Nguyên nhân chủ yếu do bất đồng nhau trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, vợ chồng không có sự thông cảm, chia sẻ, bỏ qua những khuyết điểm của nhau. Vợ chồng không thể khắc phục được nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Hiện tại, vợ chồng đã sống ly thân nhau, không ai quan tâm tới ai, mạnh ai người đó sống. Việc này đã được chính quyền địa phương xác nhận, phù hợp với nội dung xác minh tình trạng hôn nhân của Tòa án. Anh C đã được Tòa án nhiều lần thông báo đến Tòa án để làm việc bày tỏ nguyện vọng của mình nhưng anh C đều trốn tránh không đến, chứng tỏ anh C không thiết tha gì đến việc hàn gắn tình cảm vợ chồng, xây dựng hạnh phúc gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Vũ Thị Ng được ly hôn anh Đỗ Viết C để giải phóng cho người phụ nữ là cần thiết và phù hợp pháp luật.
[2] Về con cái: Vợ chồng có 03 con chung, trong đó cháu Đỗ Anh Quân – sinh ngày 07/4/2004 chưa thành niên. Chị Ng có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Anh Quân, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu Anh Quân có nguyện vọng xin được ở với chị Ng. Để đảm bảo khả năng phát triển bình thường và điều kiện học hành ổn định cho con trẻ, tránh sự xáo trộn trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của cháu. Nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị Ng giao cháu Anh Quân cho chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế, nguyện vọng của cháu Anh Quân và các quy định của pháp luật. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị Ng không yêu cầu nên miễn xét.
[3] Về tài sản: Chị Ng không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.
[4] Về án phí: Chị Ng phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;
Khoản 1 điều 28, khoản 4 điều 207, điểm a, b khoản 2 điều 227, điều 228, điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 điều 24, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu ¸nộp án phí, lệ phí Tòa án.
Về hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Ng được ly hôn anh Đỗ Viết C.
Về con cái: Giao cháu Đỗ Anh Quân – sinh ngày 07/4/2004 cho chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh C có quyền đi lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
Về án phí: Chị Vũ Thị Ng phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm chị Ng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bá Thước, theo biên lai số AA/2019/0007406 ngày 28/7/2020. Chị Ng đã nộp đủ tiền án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Vũ Thị Ng và anh Đỗ Viết C. Chị Ng và anh C có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Bản án 175/2020/HNGĐ-ST ngày 25/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 175/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bá Thước - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về