Bản án 175/2018/HS-ST ngày 27/09/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN  175/2018/HS-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 27 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 164/2018/TLST- HS ngày 24 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 174/2018/QĐXXST – HS ngày 12 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo: 

Lữ Văn C, sinh năm 1996 tại Nghệ An; nơi đăng ký thường trú: Xóm KT, xã TN, huyện CC, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lữ Văn D, sinh năm 1972 và bà Lang Thị T, sinh năm 1974; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 18/02/2018, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1976, chết ngày 22/3/2017.

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị hại: Nguyễn Thị S, sinh năm 1998; Nguyễn Thị L1, sinh ngày 02/8/2000 và Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 06/10/2015; cùng trú tại Thôn LT, xã CN, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.

Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Thị L1: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1998; thường trú: Thôn LT, xã CN, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh (theo văn bản ủy quyền ngày 10/7/2018).

Người giám hộ của cháu Nguyễn Ngọc T1: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1998; thường trú: Thôn LT, xã CNg, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh (theo trích lục đăng ký giám hộ số 124/2017/TLGH-BS ngày 20/4/2017 của Ủy ban nhân dân xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh).

- Nguyên đơn dân sự: Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD Sài Gòn; trụ sở: Lầu 8, 9, 10 Tòa nhà Gilimex, số 24C Phan Đăng Lưu, phường 6, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1990; thường trú: tổ 3, thôn 1, xã NC, huyện ĐL, tỉnh Bình Thuận; tạm trú: 245 PVĐ, phường 1, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (theo văn bản ủy quyền ngày 12/9/2018), có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Công ty TNHH thương mại dịch vụ Kim Nhật Phát; trụ sở: 16K/3 khu phố Bình Đáng, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp: Ông Bùi Văn C1, sinh năm 1976; thường trú: 16K/3 khu phố BĐ, phường BH, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1984; thường trú: Thôn 13, xã LT, huyện BL, tỉnh Lâm Đồng; tạm trú: Ấp 2, xã LA, huyện BL, tỉnh Lâm Đồng, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng: Bà Hoàng Thị Mai T, sinh năm 1994; Thôn 13, xã LT, huyện BL, tỉnh Lâm Đồng; tạm trú: Ấp 2, xã Long An, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 19/3/2017 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius không biển số (xe xin số) do Lữ Văn C điều khiển chở bạn gái Nguyễn Tuyết T1 lưu thông trên đường Nguyễn Du theo hướng từ ngã tư Nguyễn Du (giao cắt đường Nguyễn Du và đường ĐT743) về ngã ba Hầm Đất. Khi đến đoạn qua ngã ba trụ đèn số 65 thuộc khu phố Bình Đáng, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương thì xe mô tô Lữ Văn C điều khiển va chạm với bà Nguyễn Thị L đang đi bộ đến giữa vạch kẻ đường, va chạm làm bà Liệu té ngã, ngay khi đó xe mô tô biển số 49H1-239.03 do bà Hoàng Thị Mai T điều khiển đang đi đến, thấy vậy bà T phanh gấp xe té ngã xuống đường (không va chạm với bà L). Bà L bị thương được đưa đi cấp cứu đến ngày 22/3/2017 thì chết tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 217/GĐPY ngày 24/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân Nguyễn Thị L là do đa chấn thương, chấn thương sọ não (vỡ hộp sọ, tụ máu nội sọ, dập não), dập phổi.

Tại Biên bản và kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã Thuận An kết luận: 01 xe mô tô không biển số, nhãn hiệu Yamaha Sirius số khung 3240HY021089, số máy E3-X9E-057990 bị thiệt hại là 3.000.000 đồng.

Qua điều tra xác định Lữ Văn C điều khiển xe mô tô không biển số lưu thông khi có nồng độ cồn trong máu là 94mg/dl, vượt mức quy định là 50mg/dl, không có giấy phép lái xe theo quy định, không làm chủ tốc độ, không giảm tốc độ khi có người đi bộ băng qua đường vi phạm Khoản 8, khoản 9 Điều 8; Khoản 4 Điều 11 Luật giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng làm bà Nguyễn Thị L tử vong.

Đối với bà Hoàng Thị Mai T là người điều khiển xe mô tô biển số 49H1-239.03 lưu thông từ ngã ba hầm đất về hướng ngã tư Nguyễn Du và ngược chiều với xe của Lữ Văn C. Bà Thảo nhìn thấy C điều khiển xe đi nhanh và va chạm với bà L khi bà L đứng ở vạch kẻ giữa đường. Bà L té ngã trước đầu xe của bà T, bà T phanh kịp nên không đụng vào bà L và không va chạm với xe nào khác trên đường.

Đối với bà Nguyễn Tuyết T là người giao xe mô tô không biển số, nhãn hiệu Yamaha kiểu dáng Sirius, số khung RLCUE3240HY021089, số máy E3-X9E-057990 cho Lữ Văn C điều khiển gây tai nạn, C khai nhận bà T không biết C không có giấy phép lái xe. Cơ quan công an đã tiến hành triệu tập bà T để lấy lời khai làm rõ ý thức giao phương tiện cho C điều khiển nhưng bà T hiện đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa thể tiến hành làm việc được.

Đối với xe mô tô biển số 49H1-239.03 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định xe này do ông Nguyễn Ngọc N đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ngày 19/3/2017 ông Nam cho bà Hoàng Thị Mai T mượn để sử dụng không liên quan đến vụ án. Do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã trả lại xe cho ông N là có căn cứ. Ngoài ra ông N không có yêu cầu gì khác.

Đối với xe mô tô không biển số, nhãn hiệu Yamaha kiểu dáng Sirius, số khung RLCUE3240HY021089, số máy E3-X9E-057990 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định xe này do Cửa hàng Kim Nhật Phát, địa chỉ 16/3 khu phố Bình Đáng, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương bán cho bà Nguyễn Tuyết T. Cửa hàng đã làm thủ tục đăng ký biển số cho bà Trinh (biển số 69L1-097.88) và còn giữ lại biển số do bà Trinh chưa trả hết số tiền 2.200.000 đồng. Chủ cửa hàng là ông Bùi Văn C1 không có yêu cầu gì đối với chiếc xe này. Qua điều tra xác định bà T có vay tín dụng của Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD Sài Gòn số tiền 20.800.000 đồng để mua chiếc xe nêu trên, bà T đã trả được 4.869.528 đồng. Đại diện Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD Sài Gòn yêu cầu nhận lại chiếc xe này. Đối với bà Nguyễn Tuyết T Cơ quan công an đã tiến hành triệu tập bà T để lấy lời khai làm rõ ý thức giao phương tiện cho C điều khiển nhưng bà Trinh hiện đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa thể tiến hành làm việc được. Cơ quan công an đã ra thông báo trên Đài phát thanh – Truyền hình Bình Dương nhưng đến nay vẫn không có người đến liên hệ giải quyết nên Cơ quan công an tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý sau.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bà Nguyễn Thị S yêu cầu bị cáo Lữ Văn C bồi thường số tiền 263.338.988 đồng.

Tại Cáo trạng số 176/CT-VKS-TA ngày 24 tháng 8 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lữ Văn C về “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại điểm a,b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (nay là điểm a,b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng đã truy tố, phân tích tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 202, Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, đề nghị xử phạt bị cáo Lữ Văn C mức hình phạt từ từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù đến 04 (bốn) năm tù; ngoài ra đại diện Viện Kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Lữ Văn Chung đã khai nhận hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về về thời gian, địa điểm, quá trình điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của bị cáo, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn và biên bản giám định pháp y xác định nguyên nhân dẫn đến tử vong đối với bị hại và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Vào khoảng 20 giờ ngày 19/3/2017 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius không biển số (xe xin sô do Lữ Văn C điều khiển chở bạn gái Nguyễn Tuyết T lưu thông trên đường Nguyễn Du theo hướng từ ngã tư Nguyễn Du (giao cắt đường Nguyễn Du và đường ĐT743) về ngã ba Hầm Đất. Khi đến đoạn qua ngã ba trụ đèn số 65 thuộc khu phố Bình Đáng, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương thì xe mô tô Lữ Văn C điều khiển va chạm với bà Nguyễn Thị L đang đi bộ đến giữa vạch kẻ đường, va chạm làm bà L té ngã, ngay khi đó xe mô tô biển số 49H1-239.03 do bà Hoàng Thị Mai T điều khiển đang đi đến, thấy vậy bà T phanh gấp xe té ngã xuống đường (không va chạm với bà L). Bà L bị thương được đưa đi cấp cứu đến ngày 22/3/2017 thì chết tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh, do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại điểm a,b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (nay là điểm a,b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017) là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động tham gia giao thông bình thường của người khác, với lỗi vô ý do quá cẩu thả nên hành vi của bị cáo đã dẫn đến tai nạn và làm cho người bị hại tử vong. Bị cáo thực hiện hành vi vi phạm Luật giao thông đường bộ với lỗi vô ý vì quá cẩu thả, bị cáo đã nhìn thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm đến cho người khác, nhưng bị cáo cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên bị cáo đã thực hiện. Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử. Do đó, cần có mức hình phạt phù hợp với hành vi của bị cáo để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội có thái độ thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bà Sáng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Đối chiếu với mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị S yêu cầu bị cáo có trách nhiệm bồi thường các khoản sau:

+ Chi phí mai táng 49.675.000 đồng.

+ Đối với cháu Nguyễn Thị L1, sinh ngày 02/8/2000: Tính từ ngày bà Nguyễn Thị L chết là ngày 22/3/2017 cho đến khi cháu Lương đủ 18 tuổi là 01 năm 04 tháng 12 ngày, số tiền 926.666 đồng/tháng, thành tiền 15.197.322 đồng.

+ Đối với cháu Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 06/10/2015: Tính từ ngày bà Nguyễn Thị L chết là ngày 22/3/2017 cho đến khi cháu T đủ 18 tuổi (06/10/2033) là 16 năm 06 tháng 14 ngày, số tiền 1.000.000 đồng/tháng, thành tiền 198.466.666 đồng.

Tổng cộng: 263.388.988 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại thỏa thuận được với nhau về toàn bộ chi phí mai táng và tiền cấp dưỡng, sự thỏa thuận này không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận này.

Quá trình tố tụng người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự yêu cầu được nhận xe mô tô không biển số, nhãn hiệu Yamaha kiểu dáng Sirius, số khung RLCUE3240HY021089, số máy E3-X9E-057990 để cấn trừ nghĩa vụ vay tiền mua xe của bà T. Tuy nhiên quan hệ giữa Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn HD Sài Gòn với bà Nguyễn Tuyết T là quan hệ vay tài sản. Trường hợp công ty có yêu cầu thì sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện dân sự khác.

Quá trình tố tụng người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH thương mại dịch vụ Kim Nhật Phát là ông Bùi Văn C1 không có ý gì đối với số tiền bà Nguyễn Tuyết T mua xe còn thiếu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với hành vi giao xe cho bị cáo Lữ Văn C điều khiển gây tai nạn, bị cáo Chung xác định bà T không biết bị cáo chưa có giấy phép lái xe, Cơ quan công an đã tiến hành triệu tập bà T để lấy lời khai làm rõ ý thức giao phương tiện cho Chung điều khiển nhưng bà T hiện đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa thể tiến hành làm việc được tuy nhiên hiện nay bà T đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa thể tiến hành làm việc được nên Cơ quan cảnh sát tiếp tục xác minh điều tra làm rõ sau.

Đối với xe mô tô không biển số, nhãn hiệu Yamaha kiểu dáng Sirius, số khung RLCUE3240HY021089, số máy E3-X9E-057990 do bà T đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa thể tiến hành làm việc được, Cơ quan công an đã ra thông báo trên Đài phát thanh – Truyền hình Bình Dương nhưng đến nay vẫn không có người đến liên hệ giải quyết nên Cơ quan công an tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

Đối với xe mô tô biển số 49H1-239.03 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã trả lại xe cho ông N, ông N không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

[4] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a,b khoản 2 Điều 202; Điều 42, Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

Căn cứ Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

Các Điều 584, 585, 593 và Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lữ Văn C phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ .

Xử phạt bị cáo Lữ Văn C 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18 tháng 02 năm 2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lữ Văn C có trách nhiệm bồi thường chi phí mai táng số tiền 49.675.000 đồng; tiền cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Thị L1 số tiền 15.197.322 đồng; tiền cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Ngọc T số tiền 198.466.666 đồng, tổng cộng 263.338.988 đồng

Tạm giao số tiền 198.466.666 đồng là tiền cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Ngọc T1, sinh ngày 06/10/2015 cho bà Nguyễn Thị S để đảm bảo việc nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Nguyễn Ngọc T1 cho đến khi trưởng Thành. Bà Nguyễn Thị S thực hiện quyền và nghĩa vụ của người giám hộ theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về xử lý vật chứng: Tạm giao xe mô tô hai bánh không biển số, nhãn hiệu Yamaha số loại Sirius, số khung RLCUE3240HY021089, số máy E3-X9E-057990 cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An để tiếp tục xác minh, xử lý.  (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/8/2018).

4. Về án phí: Bị cáo Lữ Văn C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 13.167.000 đồng (mười ba triệu một trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bị hại đồng thời là người đại diện hợp pháp của Nguyễn Thị L1 và cũng là người giám hộ cháu Nguyễn Ngọc T1 có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 175/2018/HS-ST ngày 27/09/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:175/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về