Bản án 175/2018/HSST ngày 12/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 175/2018/HSST NGÀY 12/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 150/2018/HSST ngày 24 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Thiện T; Tên gọi khác: Bờm; Sinh ngày 07/9/1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Thường trú: Đường X, Phường 2, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (đã xóa khẩu từ ngày 30/3/2006); Cư trú: Đường N, Phường 4, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Trình độ học vấn: 8/12; con ông Trần Đức L (đã chết) và bà Nguyễn Thị Kim L (sinh năm 1963); Tiền án: Không; Tiền sự: 01 - Ngày 20/7/2018 bị Công an Phường

4, quận Tân Bình xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” và “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Nhân thân: Ngày 20/12/2004, Chủ tịch Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 6479/QĐ-UB về việc đưa người vào cơ sở chữa bệnh Trung T Giáo dục lao động xã hội Phú Đức quản lý, giáo dục và chữa bệnh thời gian 24 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy; Ngày 27/4/2012, Ủy ban nhân dân quận Tân Bình ban hành quyết định số 86/QĐ- UBND về việc đưa người vào cơ sở chữa bệnh Trung T Giáo dục lao động – Bảo trợ xã hội Phú Văn quản lý, giáo dục và chữa bệnh thời gian 24 tháng về hành vi sử dụng chất ma túy; Ngày 29/02/2016, Tòa án nhân dân quận Tân Bình ra quyết định số 13/QĐ-TA về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian chấp hành là 18 tháng. Bị tạm giam từ ngày 20/8/2018 (có mặt).

Người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại: Ông Lê Phúc C, sinh năm 1986; Địa chỉ: Phường P, thị xã A, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1963; Địa chỉ: Đường N, Phường 4, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn D, sinh năm 1979; Địa chỉ: Đường C, Phường 9, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2. Ông Lê Văn Q, sinh năm 1985; Địa chỉ: phường T, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

3. Ông Nguyễn Thái B, sinh năm 1989; Địa chỉ: Phường P, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài nên vào khoảng 11 giờ 35 phút ngày 20/8/2018, Trần Thiện T điều khiển xe gắn máy biển số 51P9-4449 đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đến trước nhà số 40-42 Thạch Thị Thanh, phường Tân Định, Quận 1, thấy cổng công trình mở, không khóa nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, T dựng xe môtô bên ngoài và đi bộ vào bên trong công trình dùng tay lấy trộm 01 máy hàn điện hiệu Weldcom màu đỏ, 01 máy cắt sắt hiệu Ken màu đỏ lên xe môtô rồi đến trước kiot số 2 Nguyễn Hữu Cầu, phường Tân Định, Quận 1 gửi cho anh Trần Văn D trông dùm. Lúc này, T tiếp tục quay lại công trình nhà số 40-42 Thạch Thị Thanh lấy trộm 01 máy hàn điện hiệu Asak màu vàng, 01 máy khoan hiệu Feg màu đỏ, 01 máy đục bê tông hiệu Makita màu xanh, 01 máy cưa gỗ hiệu Kainuo màu đỏ để lên xe môtô định bỏ đi thì bị hai anh Nguyễn Thái B, Lê Văn Q (công nhân của công trình) phát hiện bắt giữ giao Công an phường Tân Định, Quận 1 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu hồi tài sản T đã gửi cho Dũng trước đó, rồi chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 xử lý theo thẩm quyền.

Theo bản Kết luận định giá tài sản số 206/KL-HĐĐGTS ngày 25/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 1, kết luận 01 máy hàn điện hiệu Weldcom màu đỏ, 01 máy cắt sắt hiệu Ken màu đỏ, 01 máy hàn điện hiệu Asak màu vàng, 01 máy khoan hiệu Feg màu đỏ, 01 máy đục bê tông hiệu Makita màu xanh, 01 máy cưa gỗ hiệu Kainuo màu đỏ, có tổng giá trị là 3.830.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1, Trần Thiện T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên và lời khai của T phù hợp với tài liệu, chứng cứ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 thu thập được.

Vật chứng vụ án và trách nhiệm dân sự:

- 01 máy hàn điện hiệu Weldcom màu đỏ, 01 máy cắt sắt hiệu Ken màu đỏ, 01 máy hàn điện hiệu Asak màu vàng, 01 máy khoan hiệu Feg màu đỏ, 01 máy đục bê tông hiệu Makita màu xanh, 01 máy cưa gỗ hiệu Kainuo màu đỏ, đã thu hồi trả lại bị hại, bị hại không còn yêu cầu gì thêm;

- 01 đĩa CD ghi nhận hình ảnh T trộm cắp tài sản (lưu hồ sơ); Thu giữ của Trần Thiện T:

- 01 xe gắn máy biển số 51P9-4449, số khung VMEPCG00221057178, số máy SD056734; qua điều tra, xe do Nguyễn Văn N (địa chỉ: Phường 14, quận B) đứng tên chủ sở hữu, xác minh tại Phường 14, quận B không có địa chỉ. Bà Nguyễn Thị Kim L (mẹ ruột T) khai bà mua xe của một người đàn ông (không rõ lai lịch) vào năm 2008 và có giữ đăng ký xe bản chính nhưng không làm giấy tờ mua bán. Ngày 20/8/2018, bà L đưa xe cho T mượn và không biết T dùng xe để đi trộm cắp tài sản. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 đã đăng báo tìm chủ sở hữu xe nhưng chưa ai đến khai báo; hiện xe do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 tạm giữ.

Tại bản cáo trạng số 156/CT-VKS ngày 22 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Thiện T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 tham gia phiên tòa kết luận bị cáo Trần Thiện T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đề nghị Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo T từ 12 đến 18 tháng tù. Đối với vật chứng của vụ án, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Do cần tiền tiêu xài nên vào khoảng 11 giờ 35 phút ngày 20/8/2018, Trần Thiện T điều khiển xe gắn máy biển số 51P9-4449 đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đến trước nhà số 40-42 Thạch Thị Thanh, phường Tân Định, Quận 1, thấy cổng công trình mở, không khóa nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, T dựng xe môtô bên ngoài và đi bộ vào bên trong công trình lén lút lấy trộm 01 máy hàn điện hiệu Weldcom màu đỏ, 01 máy cắt sắt hiệu Ken màu đỏ lên xe môtô rồi đến trước kiot số 2 Nguyễn Hữu Cầu, phường Tân Định, Quận 1 gửi cho anh Trần Văn D trông dùm. Sau đó, T tiếp tục quay lại công trình nhà số 40-42 Thạch Thị Thanh lấy trộm thêm 01 máy hàn điện hiệu Asak màu vàng, 01 máy khoan hiệu Feg màu đỏ, 01 máy đục bê tông hiệu Makita màu xanh, 01 máy cưa gỗ hiệu Kainuo màu đỏ để lên xe môtô định bỏ đi thì bị hai anh Nguyễn Thái B, Lê Văn Q (công nhân của công trình) phát hiện bắt giữ giao Công an phường Tân Định, Quận 1 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu hồi tài sản T đã gửi cho Dũng trước đó, rồi chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 xử lý theo thẩm quyền. Quá trình điều tra đã xác định do anh Dũng tưởng bị cáo là công nhân thi công công trường gần đó gửi đồ nên đã đồng ý cho bị cáo gửi, không biết các tài sản bị cáo gửi là tài sản trộm cắp.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 206/KL-HĐĐGTS ngày 25/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 1, xác định 01 máy hàn điện hiệu Weldcom màu đỏ, 01 máy cắt sắt hiệu Ken màu đỏ, 01 máy hàn điện hiệu Asak màu vàng, 01 máy khoan hiệu Feg màu đỏ, 01 máy đục bê tông hiệu Makita màu xanh, 01 máy cưa gỗ hiệu Kainuo màu đỏ, có tổng giá trị là 3.830.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng vì động cơ tư lợi cá nhân nên vẫn cố tình thực hiện. Bản thân bị cáo có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản và sử dụng trái phép chất ma túy, nhân thân xấu đã nhiều lần bị bắt buộc chữa bệnh và cai nghiện. Do đó cần có mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe đối với bản thân bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhận thấy bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, pham tội nhưng chưa gây thiệt hại nên khi lượng hình Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo.

[3]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại các Điều 106, 107 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tài sản bị trộm cắp đã thu hồi trả người bị hại, bị hại không có yêu cầu về dân sự nên không xem xét, giải quyết; Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 01 đĩa ghi hình ảnh vụ trộm; Đối với 01 xe gắn máy biển số 51P9-4449, số khung VMEPCG00221057178, số máy SD056734; qua điều tra, xe do Nguyễn Văn N (địa chỉ 13/7 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 14, quận Tân Bình) đứng tên chủ sở hữu, xác minh tại Phường 14, quận Tân Bình không có địa chỉ 13/7 Cách Mạng Tháng Tám. Bà Nguyễn Thị Kim L (mẹ ruột T) khai bà mua xe của một người đàn ông (không rõ lai lịch) vào năm 2008 và có giữ đăng ký xe bản chính nhưng không làm giấy tờ mua bán. Ngày 20/8/2018, bà L đưa xe cho T mượn và không biết T dùng xe để đi trộm cắp tài sản cần tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn theo quy định. Quá thời hạn không tìm được chủ sở hữu thì trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim L là người quản lý tài sản. Nếu có tranh chấp về quyền sở hữu đối với chiếc xe trên thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự (theo Phiếu nhập kho vật chứng số 212/PNK ngày 04/9/2018).

 [4]. Án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 đồng bị cáo chịu.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thiện T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; xử phạt Trần Thiện T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/8/2018.

- Áp dụng các Điều 106; 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục lưu hồ sơ đĩa ghi hình ảnh vụ trộm; Tiếp tục đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn theo quy định đối với xe gắn máy biển số 51P9-4449, số khung VMEPCG00221057178, số máy SD056734. Quá thời hạn không tìm được chủ sở hữu thì trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim Lan là người quản lý tài sản. Nếu có tranh chấp về quyền sở hữu đối với chiếc xe trên thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự (theo Phiếu nhập kho vật chứng số 212/PNK ngày 04/9/2018).

- Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Thiện T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng các Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

387
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 175/2018/HSST ngày 12/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:175/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về