Bản án 175/2018/HNGĐ-ST ngày 02/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 175/2018/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 02 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 410/2018/TLST-HNGĐ ngày 13/6/2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 280/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16/7/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Hồ Thanh T, sinh năm 1991

Địa chỉ: Khóm 7, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Mã Chí K, sinh năm 1982

Địa chỉ: Khóm 4, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 12/6/2018 và lời trình bày nguyên đơn có tại hồ sơ và tại phiên tòa, thể hiện:

Vào năm 2015 chị T và anh K được 02 bên gia đình tổ chức đám cưới với nhau, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn S vào ngày 21/5/2015 (giấy chứng nhận kết hôn số 110/2015). Trong quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên: Mã Kim C, sinh 08/10/2016 hiện nay đang sống với chị T và cháu C có mắc bệnh Hen Suyễn bẩm sinh vẫn đang điều trị dài hạn.

Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thoả thuận.

Nguyên nhân mâu thuẫn là: Do anh T thường xuyên nhậu nhẹt, không quan tâm đến vợ con, từ đó vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, dẫn đến cuộc sống vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc.

Nay chị T yêu cầu ly hôn với anh K. Về con chung yêu cầu nuôi con (với lý do con chung còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên cần sự chăm sóc của mẹ), yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật cho đến khi con đủ 18 tuổi. Về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Lời trình bày của bị đơn có tại hồ sơ và tại phiên toà:

Anh K thống nhất với lời trình bày của chị T về hôn nhân, về con chung, về tài sản chung và nợ chung là đúng sự thật. Anh K cũng xác định cháu C có mắc bệnh Hen Suyễn bẩm sinh vẫn đang điều trị dài hạn.

Nguyên nhân mâu thuẫn là: Vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, nhưng vợ thường xuyên tự ý bỏ nhà đi không thông qua ý kiến của anh K.

Nay anh K đồng ý ly hôn với chị T. Về con chung yêu cầu được nuôi con (với lý do chị T hiện tại không có công việc ổn định, không tạo ra thu nhập để nuôi dạy con tốt về mọi mặt và chị T hiện nay không có chỗ ở ổn định), không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Đồng thời không đồng ý trước yêu cầu cấp dưỡng của chị T. Đối với vấn đề cấp dưỡng tuỳ theo Toà án quyết định.

- Các chứng cứ do các đương sự cung cấp:

+ Chị T cung cấp đơn xin xác nhận ngày 18/7/2018, với nội dung: Chị T đang làm việc tại tiệm Nail Trần (Mỹ) ở khóm 7, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau với mức lương 6.000.000 đồng/tháng.

+ Anh T cung cấp đơn xin được quyền nuôi con đến tuổi trưởng thành ngày 27/7/2018, với nội dung: Anh K hiện là chủ cơ sở xưởng cơ khí toạ lạc tại khóm 7, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau với thu nhập 30.000.000 đồng/tháng và anh K hiện nay có nhà ở ổn định.

Từ những nội dung vụ án thể hiện;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về mối quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con, do đó xác định mối quan hệ pháp luật giữa các đương sự là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét về thẩm quyền của Tòa án: Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện T, nội dung tranh chấp là việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, nên Tòa án nhân dân huyện T thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét về mối quan hệ hôn nhân và yêu cầu ly hôn: Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân tiến bộ là vợ chồng phải chung thủy, yêu thương nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; nhưng ngược lại chị T và anh K không làm được điều đó, mà lại làm cho tình trạng hôn nhân giữa anh chị mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, không thể hàn gắn trở lại và trong quá trình giải quyết vụ án chị T và anh K cương quyết ly hôn với nhau, do đó xác định chị T và anh K đã vi phạm nghiêm trọng quyền và ngh a vụ của vợ chồng dẫn đến các hệ lụy nêu trên, nên cần chấp nhận cho ly hôn giữa chị T và anh K là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình;

[4] Xét về con chung:

- Về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: Giữa chị T và anh K đều có nguyện vọng được nuôi cháu Mã Kim C, sinh ngày 08/10/2016. Hội đồng xét xử xét thấy cháu C hiện nay đang được chị T trực tiếp nuôi dạy và chị T chứng minh được hiện nay có công việc thu nhập ổn định (có xác nhận của chính quyền địa phương) đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu C, mặc dù anh K cũng chứng minh được điều kiện thu nhập và nuôi con, nhưng cháu C hiện nay chưa được 24 tháng tuổi và anh K không chứng cứ chứng minh chị T không đủ điều kiện nuôi con, nên cần việc chăm sóc nuôi dưỡng của mẹ là cần thiết, nên cần giao cháu C cho chị T nuôi dạy là phù hợp với khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Anh K có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cản anh K thực hiện quyền này và anh K phải tôn trọng quyền của con chung được sống với chị T là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 82, khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng: Chị T yêu cầu cấp dưỡng nuôi con hàng tháng theo quy định của pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, anh K không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy người trực tiếp nuôi con là chị T, và anh K là người không trực tiếp nuôi con thì phải có ngh a vụ cấp dưỡng nuôi con là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình; đối với mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng, Hội đồng xét xử xét thấy theo hướng dẫn tại khoản 2, mục III Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của Tòa án nhân dân tối cao thì mức cấp dưỡng tối thiểu không dưới ½ mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử đối với 01 người con, mức lương cơ sở hiện nay là 1.390.000 đồng, nhưng chị T và anh K đều thừa nhận cháu C có bệnh Hen Suyễn bẩm sinh phải điều trị dài hạn, và anh K có thu nhập ổn định 30.000.000 đồng/tháng, để đảm bảo việc cấp dưỡng nuôi cháu C tốt, nên cần buộc anh K có ngh a vụ cấp dưỡng nuôi cháu C mỗi tháng 2.000.000 đồng phù hợp và phương thức cấp dưỡng hàng tháng là đúng theo quy định tại Điều 116, Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Xét về tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh K không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Xét về án phí: Chị T phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng, anh K phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chị T đã dự nộp tiền tạm ứng án phí trước 300.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T được chuyển thu đối trừ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 116, Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về nội dung:

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa Hồ Thanh T và Mã Chí K.

- Về con chung: Giao cho chị T trực tiếp nuôi dạy con chung tên Mã Kim C, sinh 08/10/2016 đến tuổi trưởng thành. Anh K có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cản anh K thực hiện quyền này và anh K phải tôn trọng quyền của con chung được sống với chị T.

Anh K phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Mã Kim C, sinh 08/10/2016 với số tiền 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi cháu C đủ 18 tuổi. Phương thức cấp dưỡng được thực hiện hàng tháng kể từ ngày 02/8/2018.

Kể từ ngày chị T có đơn yêu cầu thi hành án mà anh K chậm thực hiện ngh a vụ đối với khoản tiền cấp dưỡng nói trên, thì hàng tháng anh K còn phải chịu lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự đối với khoản tiền cấp dưỡng nói trên tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Về án phí:

Chị T phải nộp án phí ly hôn là 300.000 đồng, anh K phải nộp án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng. Chị T đã dự nộp tạm ứng án phí trước 300.000 đồng theo biên lai số 0008282 ngày 13/6/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu đối trừ.

3. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 175/2018/HNGĐ-ST ngày 02/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:175/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về