Bản án 174/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy  

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 174/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 156/2020/HSST ngày 13 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 178/2020/QĐXXST-HS ngày 12/11/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn B, sinh năm 1996, tại Đồng Nai; ĐKTT: khu p, thị trấn G, huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Thợ Hàn; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị S; Vợ: Nguyễn Ngọc Uyển Nh, con: 01, sinh năm 2016. Bị cáo là con thứ tám trong gia đình. Tiền án, tiền sự : không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/7/2020 đến nay.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Đặng Văn H, sinh năm 1986, vắng mặt.

ĐKTT: khu 4, thị trấn G, huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai

* Người làm chứng:

Anh Nguyễn Việt K, sinh năm 1997, sinh năm 2000, vắng mặt. ĐKTT: ấp 1, xã Xuân T, huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 03 giờ 00 phút ngày 15/7/2020, khi lực lượng Công an xã Xuân T đang đi tuần tra trên tuyến Quốc lộ 1A thuộc địa bàn ấp 5, xã Xuân T, huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện Nguyễn Văn B đang điều khiển xe mô tô biển số 53S7-1582 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Qua kiểm tra thì phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của B đang mặc có 01 (một) gói nylon hàn kín, kích thước 2,5x3,5cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (B khai là ma túy tổng hợp tàng trữ để sử dụng cho bản thân), lực lượng Công an xã Xuân T đã đưa B cùng tang vật về trụ sở Công an xã Xuân T để làm việc. Nhận được tin báo, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện Xuân L đã đến và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn B, thu giữ và niêm phong tang vật theo quy định.

Quá trình điều tra xác định: Nguyễn Văn B là đối tượng nghiện ma túy (loại ma túy tổng hợp). Vào khoảng 01 giờ ngày 15/7/2020 , B đi đến địa bàn xã Xuân H, huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai mua 01 (một) gói ma túy của một người thanh niên tên Th (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 200.000 đồng. Sau đó, B đem gói ma túy về nhà của mình tại khu 4, thị trấn Gia R, huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai lấy ra một ít để sử dụng, số ma túy còn lại B cất giấu vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu MAGIC màu xanh, biển số 53S7-1582 đi xuống địa bàn xã Xuân T có công việc riêng. Khi B điều khiển xe đến gần chùa Quảng L thuộc ấp 5, xã Xuân T, huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai do điều khiển xe nẹt bô nên bị lực lượng Công an xã Xuân T yêu cầu dừng xe kiểm tra thì lực lượng Công an xã Xuân T phát hiện trong túi quần phía trước bên phải của B đang mặc có 01 (một) gói nylon hàn kín, kích thước 2,5x3,5cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, B khai là ma túy tổng hợp tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Vật chứng vụ án thu giữ: 01 (một) nylon kích thước 2,5x3,5 cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, thu giữ trên người của Nguyễn Văn B (ký hiệu M); 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu MAGIC màu xanh, biển số 53S7-1582.

Tại bản Kết luận giám định số 1449/KLGĐ-PC09 ngày 21/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1504 gam loại: Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 107/CT-VKS-HS ngày 12 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc phát biểu giữ nguyên quan điểm truy tố theo bản cáo trạng .

Tình tiết tăng nặng: không Tình tiết giảm nhẹ; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt và lần đầu phạm tội; có con còn nhỏ và hiện nay vợ đã bỏ đi được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B từ 16 tháng đến 18 tháng.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì được niêm phong mẫu vật sau giám định số 1449/KLGĐ-PC09 ghi ngày 21/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai Bị cáo Nguyễn Văn B nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo cũng như không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, người liên quan, người làm chứng trong vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án Vào lúc 03 giờ 30 phút ngày 15/7/2020, tại trụ sở Công an xã Xuân T, huyện Xuân L, tỉnh Đồng Nai. Công an xã Xuân T phi hợp với Công an huyện Xuân L phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Văn B cất giấu trong túi quần phía trước bên phải đang mặc có 01 (một) gói nylon hàn kín, kích thước 2,5x3,5cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, B khai là ma túy tổng hợp tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Qua giám định, xác định gói nylon nêu trên là ma túy, có khối lượng: 0,1504 gam, loại: Methamphetamine.

Bị cáo B là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi cất giữ ma túy trái pháp luật. Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine để sử dụng, bị cáo đã xâm phạm đến quy định của Nhà nước về phòng ngừa, ngăn chặn và kiểm soát tệ nạn ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước với chất ma túy, gây tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, đồng thời có nguy cơ phát sinh các tội phạm và các tệ nạn xã hội khác Như vậy, có cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có

[4] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu; chưa tiền án, tiền sự; có con còn nhỏ; có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Căn cứ vào các tình tiết trên, thấy rằng việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là cần thiết nhằm cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có thu nhập, nghề nghiệp không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Nhận định của kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng vụ án: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì được niêm phong mẫu vật sau giám định số 1449/KLGĐ-PC09 ghi ngày 21/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

[8] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, do không rõ nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở để xử lý.

[9] Về án phí: bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

1. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn B 01 ( một) năm 02( hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2020.

2.Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì 01 (một) phong bì được niêm phong mẫu vật sau giám định số 1449/KLGĐ-PC09 ghi ngày 21/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai ( Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/10/2020).

3.Về án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn B phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 174/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy  

Số hiệu:174/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về