TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 174/2020/HS-ST NGÀY 17/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 174/2020/HSST ngày 01 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 186/2020/QĐXXST- HS ngày 04/12/2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Bá T; giới tính: Nam; sinh ngày: 09/5/1979; nơi cư trú: Thôn 3, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; con ông Nguyễn Bá U (đã chết, ông U là thương binh, bệnh binh, được hưởng trợ cấp hàng tháng đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học) và con bà Trần Thị N, sinh năm 1953; gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai; vợ là Nguyễn Thị T, có 02 con. Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Tham gia nghĩa vụ quân sự từ tháng 02/1998 đến tháng 02/2000; quyết định số 1627/QĐ-UBND ngày 07/11/2012 của chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện K về việc đưa người vào Trung tâm cai nghiện bắt buộc 05-06 tỉnh Thái Bình thời gian 12 tháng; chấp hành xong ngày 08/11/2013. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/10/2020 đến ngày 13/10/2020 chuyển tạm giam đến nay, bị cáo bị trích xuất có mặt tại phiên tòa.
1 - Người chứng kiến:
1. Anh Nguyễn Đắc L, sinh năm 1978 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn S, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình.
2. Anh Phạm Xuân Đ, sinh năm 1973 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn S, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 10/10/2020, bị cáo Nguyễn Bá T đi xe ôm từ nhà đến khu vực tổ 17, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình với mục đích mua ma túy về để sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi bị cáo T xuống xe trả tiền xe ôm và đến gặp một người phụ nữ khoảng 40 tuổi không biết tên, địa chỉ, bị cáo T hỏi người phụ nữ “em có ma túy không bán cho anh 200.000 đồng”, người phụ nữ trả lời “có, đưa tiền đây”, bị cáo T đưa cho người phụ nữ 200.000 đồng, người phụ nữ nhận tiền và đưa lại cho bị cáo 01 gói bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, bị cáo T cầm ở lòng bàn tay phải, sau đó đi bộ tìm chỗ để sử dụng. Khoảng 19 giờ 30 phút khi bị cáo T đi đến khu vực đường tránh S2 thôn S, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình thì bị tổ công tác của Công an xã V, thành phố T yêu cầu bị cáo T đứng lại để kiểm tra vì nghi có liên quan đến ma túy. Khi kiểm tra trước sự chứng kiến của anh Nguyễn Đắc L và anh Phạm Xuân Đ, bị cáo T tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1179 gam. Tổ công tác đã niêm phong gói ma túy trong phong bì dán kín trên mép dán có chữ ký của bị cáo T và người chứng kiến. Sau đó tổ công tác yêu cầu bị cáo T và mời người chứng kiến về trụ sở Công an xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình để làm việc. Tại đây kiểm tra người bị cáo T thu tại túi quần bên trái 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel A160 màu đen, ngoài ra không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng và chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại bản kết luận giám định số 369/KLGĐ-PC09, ngày 12/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Vật chứng quản lý của Nguyễn Bá T gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1179 gam (không phẩy một nghìn một trăm bảy mươi chín gam).
Cáo trạng số 175/CT-VKSTPTB ngày 30/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Bá T về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 38; điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá T mức án từ 01 năm 03 tháng tù tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/10/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị:
+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định.
+ Trả lại bị cáo Nguyễn Bá T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel A160 màu đen nhưng tiếp tục quản lý để bảo đảm thi hành án.
- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định.
Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố, không tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Bá T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo được chứng minh bởi các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an xã V, thành phố T lập hồi 19 giờ 40 phút ngày 10/10/2020 (bút lục số 03, 04); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an xã V, thành phố T lập hồi 20 giờ 10 phút ngày 10/10/2020 (bút lục số 30; bản Kết luận giám định số 369/KLGĐ - PC09 ngày 12/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số 34); lời khai của những người chứng kiến là Nguyễn Đắc L và anh Phạm Xuân Đ (bút lục số 60 đến 69). Cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ khác về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 19 giờ 30 phút ngày 10/10/2020, tại khu vực đường tránh S2, thôn S, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Bá T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1179 gam Hêrôin để sử dụng cho bản thân thì bị Công an xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình bắt quả tang. Vì vậy, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều 249 Bộ luật Hình sự tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:a) …c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
[3] Xét tính chất mức độ hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Ma tuý đã gây ra những tác hại khôn lường cho sức khoẻ, trí tuệ, nhân cách và nòi giống con người, ma tuý còn gây ra biết bao hiểm hoạ nghiêm trọng khác cho xã hội, là nguồn gốc phát sinh hàng loạt các loại tội phạm, là tác nhân lan truyền đại dịch thế kỷ HIV- AIDS, là yếu tố phá vỡ hạnh phúc biết bao gia đình có người nghiện…Tội phạm mà bị cáo đã thực hiện là tội phạm nghiêm trọng, vì vậy, Hội đồng xét xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, và góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội. Do bị cáo có việc làm và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo Nguyễn Bá T không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại điều 52 Bộ luật hình sự; bị cáo có nhân thân xấu, đã 01 lần bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có thời gian tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam; bố đẻ của bị cáo là thương, bệnh binh nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về nguồn gốc số ma tuý: Bị cáo T khai mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi không biết tên và địa chỉ tại khu vực tổ 17, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.
[6] Về xử lý vật chứng:
[6.1] Số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự và căn cứ vào điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.
[6.2] Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel A160 màu đen thu giữ của bị cáo Nguyễn Bá T. Xét thấy đây là những tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên căn cứ vào điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[8] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 38; điều 50; điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điều 106; điều 135; điều 136; điều 331; điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều 21, điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/10/2020.
3. Về xử lý vật chứng:
3.1. Tịch thu tiêu hủy số ma tuý thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định niêm phong trong phong bì ghi số 369/KLGĐ-PC09 mẫu vật hoàn trả sau giám định.
3.2. Trả lại bị cáo Nguyễn Bá T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel A160 màu đen nhưng giao cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
(Các vật chứng nêu trên Cơ quan điều tra đã chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thành phố T ngày 30/11/2020).
4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Bá T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Bị cáo Nguyễn Bá T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 17/12/2020.
Bản án 174/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 174/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về