Bản án 174/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 174/2020/HS-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 143/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 193/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2020, đối với bị cáo:

NGUYỄN THANH B, giới tính: Nam; sinh: 1982, nơi sinh: tại Hà Tĩnh; thường trú: huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; chỗ ở: phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không, trình độ văn hóa: 11/12; nghề nghiệp: hớt tóc; con ông Nguyễn Kim L và bà Nguyễn Thị M; chưa có vợ con; tiền sự: không; tiền án: 05

- Ngày 03/5/2002, bị Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh B Dương xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 49/HSST ngày 03/5/2002. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/9/2002.

- Ngày 15/8/2003, bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 74/HSST ngày 15/8/2003. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/9/2004.

- Ngày 25/10/2005, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 544/2005/HSPT ngày 25/10/2005. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/9/2008.

- Ngày 09/3/2010, bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 35/HSST ngày 09/3/2010. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/12/2010.

- Ngày 11/11/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 659/2011/HSST ngày 11/11/2011. Chấp hành xong hình phạt ngày 21/12/2014.

Nhân thân:

- Ngày 16/11/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh B Dương xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, theo bản án số 344/2018/HS-ST ngày 16/11/2018

Tạm giam: bị cáo đang chấp hành án trong vụ án khác, tại trại giam Phú Hòa, tỉnh B Dương từ ngày 01/5/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: chị Nguyễn Thị G sinh: 1993 Thường trú: xã Hòa Hiệp, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Chỗ ở: phường Hiệp B Chánh, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 21/5/2015, Nguyễn Thanh B đi xe buýt một mình đến khu vực phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức, tìm người có tài sản để sơ hở thì trộm cắp, bán lấy tiền tiêu xài. Khi B đến trước trụ ATM Sacombank tại số 231 đường Võ Văn Ngân, khu phố 4, phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện cạnh trụ ATM có 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha hiệu Sirius, biển số 70H1-14452 của chị Nguyễn Thị G, không có người trông coi, B liền đi lại chỗ dựng chiếc xe nêu trên, dùng cây đoản (mang theo sẵn) phá khóa xe và đạp nổ máy bỏ chạy về hướng ngã tư Thủ Đức để tẩu thoát thì bị chị Giàu phát hiện, truy hô và cùng người dân đi đường đuổi theo bắt quả tang B cùng vật chứng, giao Công an phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức lập hồ sơ xử lý.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Nguyễn Thanh B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Vật chứng vụ án: - 01 xe mô tô hiệu Yamaha hiệu Sirius, biến số 70H1- 14452 (đã trả cho bị hại) - 01 cây đoản dùng phá khóa xe, dài khoảng 08cm.

Kết quả định giá tài sản ngày 28/5/2015 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thủ Đức kết luận: chiếc xe mô tô hiệu Yamaha hiệu Sirius, biển số 70H1-14452, trị giá 14.800.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Giàu đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố.

[2] Bản Cáo trạng số 150/CT-VKS ngày 27/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Nguyễn Thanh B về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 cùng các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo từ 04 (bốn) năm đến 05 (năm) năm tù và đề nghị tổng hợp hình phạt với bản án số 344/2018/HS-ST ngày 16/11/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Vật chứng vụ án và trách nhiệm dân sự đã được giải quyết tại bản án số 138/2016/HSST ngày 19/4/2016 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo không tranh luận hoặc bào chữa gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trì nh tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thanh B phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định ngày 21/5/2015, tại trước trụ ATM Sacombank, số 231 Võ Văn Ngân, khu phố 4, phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức, bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 chiếc xe mô tô hiệu Yamaha hiệu Sirius, biển số 70H1-14452, trị giá 14.800.000 đồng của chị Nguyễn Thị G. Hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra trước ngày Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Thanh B đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xét về nhân thân bị cáo Bình có 05 tiền án như đã nêu tại phần lý lịch của bị cáo, tại bản án số 659/2011/HSST ngày 11/11/2011 của Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nhận định bị cáo Nguyễn Thanh B có 04 tiền án chưa được xóa án tích và áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm, tính đến ngày bị cáo phạm tội mới trong vụ án này là ngày 21/5/2015 thì bị cáo chưa được xóa án tích, dẫn đến Viện kiểm sát truy tố và Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xét xử Nguyễn Thanh B theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự sự năm 1999 với mức án 02 (hai) năm tù tại bản án số 138/2016/HSST ngày 19/4/2016 là không đúng với khung hình phạt, không tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, vì vậy bản án này bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy về phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thanh B theo quyết định số 64/2019/HS-TT ngày 28/10/2019. Do đó lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, hành vi phạm tội của bị cáo diễn ra liên tục, bị cáo lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống, lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính, thể hiện bị cáo phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, đây là các tình tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý liên tục xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Sau khi chấp hành xong hình phạt tại bản án số 138/2016/HSST ngày 19/4/2016 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hố Chí Minh, ngày 21/02/2017, bị cáo tiếp tục phạm tội “cướp giật tài sản”, bị Tòa án nhân dân Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù theo bản án số 344/2018/HS-ST ngày 16/11/2018, bản án này đang có hiệu lực thi hành, do đó cần tổng hợp hình phạt để đảm bảo việc thi hành án.

Bị cáo đã được đi cải tạo giáo dục nhiều lần nhưng sau khi hòa nhập cộng đồng bị cáo không tu dưỡng bản thân, làm người lương thiện mà lại tiếp tục phạm tội mới, thể hiện bị cáo không có thái độ ăn năn hối cải. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi, phạm tội gây thiệt hại không lớn, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự và vật chứng vụ án đã được giải quyết tại bản án số 138/2016/HSST ngày 19/4/2016 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

[5] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thanh B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B 05 (năm) năm tù.

Áp dụng Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

Tổng hợp với hình phạt 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù tại Bản án số 344/2018/HS-ST ngày 16/11/2018 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Bị cáo Nguyễn Thanh B phải chấp hành hình phạt chung là 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/5/2018, được khấu trừ thời gian chấp hành hình phạt tù tại bản án số 138/2016/HSST ngày 19/4/2016 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, từ ngày 21/5/2015 đến ngày 21/02/2017.

- Án phí: áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo Nguyễn Thanh B chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại vụ án vắng mặt, thời gian kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 174/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:174/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về