Bản án 174/2020/DS-PT ngày 17/03/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 174/2020/DS-PT NGÀY 17/03/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 17 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2020/TLPT-DS ngày 13/01/2020 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Do bản án sơ thẩm số: 439/2019/DS-ST ngày 14/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 928/2020/QĐXXPT-DS ngày 13/01/2020, giữa:

1. Nguyên đơn: Ông Lê A , sinh năm 1957 (có mặt) Địa chỉ: Số 09 Đường 500, Tổ 34, Ấp 5, xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn:

2.1. Ông Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1955 2.2. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1953 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Cùng địa chỉ: Ấp 4, xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1961( Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa) Địa chỉ: Số 09 Đường 500, Tổ 34, Ấp 5, xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

Do có kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc B và bà Nguyễn Thị C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/4/2018, đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 07/3/2019, đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 25/10/2019 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là ông Lê A trình bày:

Ngày 04/5/2009, bà Nguyễn Thị C có ký giấy mượn nợ với nội dung bà C vay của ông Đồng số tiền là 132.500.000 đồng và 18 chỉ vàng SJC, thời hạn hoàn trả vào cuối năm 2009, lãi suất thỏa thuận bằng lời nói là 3%.

Ngày 21/6/2011, bà C có trả cho ông 09 chỉ vàng SJC trị giá 50.000.000 đồng (bà C trả cho ông Đồng bằng tiền mặt). Sau đó, bà C tiếp tục trả cho ông 09 chỉ vàng 24K và 4 chỉ tiền lãi (tiền lãi của 18 chỉ vàng SJC).

Ngày 20/01/2014 bà C tiếp tục vay của ông 13,5 chỉ vàng 9999. Ngày 18/4/2015 bà C trả cho ông số vàng vay 13,5 chỉ và 4.500.000 đồng tiền lãi (của 13,5 chỉ vàng) nhưng tiền lãi thực tế bà C phải trả cho ông là 28.500.000 đồng. Vì vậy, bà C còn nợ ông 24.000.000 đồng và bà C hứa sẽ trả vào ngày 05/5/2015.

Đến cuối năm 2015 thì bà C có trả cho ông là 13.000.000 đồng. Sau đó bà C trả cho ông là 4.000.000 đồng. Tổng cộng bà C đã trả ông là 17.000.000 đồng, vậy số tiền lãi bà C còn nợ ông là 7.000.000 đồng.

Bà C có giao cho ông giữ bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 109301, số vào sổ cấp GCN: CH03569 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 16/12/2014 để đảm bảo cho khoản tiền mà bà C vay của ông.

Như vậy, bà C còn nợ ông số tiền là:

1. Tiền nợ gốc là 132.500.000 đồng.

2. Tiền lãi cho số nợ gốc tính từ ngày 4/5/2009 đến ngày 09/11/2018 tổng cộng là 96 tháng: 132.500.000 đồng x 0,7% x 96 (tháng) = 89.040.000 đồng.

3. Số tiền lãi của 13,5 chỉ vàng là 7.000.000 đồng.

Tng cộng ông yêu cầu vợ chồng bà C phải trả cho vợ chồng ông là 228.500.000 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 10/11/2018 đến ngày Tòa án xét xử với lãi suất 0,7% một tháng, trả 01 lần ngay sau khi án phát sinh hiệu lực pháp luật.

Tiền mà ông cho vợ chồng bà C vay là tiền chung của ông và vợ ông là bà D. Ông xác định mọi giao dịch chỉ có mình bà C ký nhận nhưng do ông B là chồng bà C cũng biết sự việc nên phải liên đới chịu trách nhiệm.

Bị đơn là ông Nguyễn Ngọc B và bà Nguyễn Thị C không có ý kiến trình bày.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị D trình bày: Bà là vợ của ông Lê A và bà thống nhất với toàn bộ lời khai của ông Đồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn là ông B và bà C vắng mặt.

Nguyên đơn là ông Lê A xác định chỉ yêu cầu bà C và ông B trả cho ông và vợ ông là bà D nợ gốc là 132.500.000 đồng và tiền lãi cho số nợ trên tính đến ngày xét xử là: 132.500.000 đồng x 0,7% x 96 (tháng) là 89.040.000 đồng. Tổng số tiền ông B và bà C phải trả cho ông Đồng và bà D là 221.540.000 đồng. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị D thống nhất với ý kiến trình bày của nguyên đơn.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 439/2019/DS-ST ngày 14/11/2019 của Tòa án nhân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu của ông Lê A .

Buộc bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Ngọc B phải thanh toán cho ông Lê A và bà Nguyễn Thị D số tiền 221.540.000 đồng (Hai trăm hai mươi mốt triệu năm trăm bốn mươi nghìn đồng).

Thời gian và cách trả: Trả một lần ngay sau khi bản án phát sinh hiệu lực pháp luật.

Giấy mượn nợ ngày 04/5/2009 giữa ông Lê A và bà Nguyễn Thị C không còn giá trị pháp lý.

Khi bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Ngọc B thanh toán đủ cho ông Đồng, bà D số tiền 221.540.000 đồng thì ông Đồng có trách nhiệm trả cho bà C và ông B bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 109301, số vào sổ cấp GCN: CH03569 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 16/12/2014. Trường hợp ông Đồng không giao trả thì bà Nguyễn Thị C liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Lê A về việc buộc bị đơn là vợ chồng ông Nguyễn Ngọc B và bà Nguyễn Thị C phải trả tiền lãi của 13,5 chỉ vàng hiệu 9999 là 7.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên tiền lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ, người chịu án phí sơ thẩm, quyền thỏa thuận thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 06/12/2019, bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Ngọc B kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyên đơn là ông Lê A và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D đề nghị cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Theo đơn kháng cáo của bị đơn là ông Nguyễn Ngọc B và bà Nguyễn Thị C đề nghị Tòa án xác nhận số nợ thực tế của ông bà đối với vợ chồng ông Đồng, bà D là 7.000.000 đồng (là số tiền lãi của lần vay 13,5 chỉ vàng). Ông, bà không có vay của vợ chồng ông Đồng số tiền 132.500.000 đồng theo như giấy nợ ngày 04/5/2009 vì giấy vay mượn ngày 04/5/2009 là do ông Đồng giả mạo chữ ký của ông bà.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án. Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã tuân thủ đúng theo trình tự thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng Dân sự quy định về địa vị tố tụng, người tham gia tố tụng và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của các đương sự cho đến thời điểm kết thúc tranh luận. Về nội dung thì đề nghị cấp phúc thẩm: Sửa 1 phần bản án sơ thẩm về tiền lãi suất và tiền án phí, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn là ông Nguyễn Ngọc B và bà Nguyễn Thị C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Căn cứ vào giấy mượn nợ ngày 04/5/2009 thể hiện bà Nguyễn Thị C có mượn của ông Lê A số tiền 132.500.000 đồng và 18 chỉ vàng 9999, thời hạn hoàn trả vào cuối năm 2009. Ông Đồng xác nhận hiện nay bà C đã trả đủ số vàng đã mượn cùng với lãi suất, riêng đối với khoản tiền 132.500.000 đồng thì bà C vẫn chưa trả cho ông. Về lãi suất, ông Đồng xác định không thỏa thuận trong hợp đồng vay tiền và yêu cầu tiền lãi là 132.500.000 đồng x 0,7% x 96 (tháng) = 89.040.000 đồng. Ngoài ra ông Đồng yêu cầu ông Nguyễn Ngọc B là chồng của bà C cùng có trách nhiệm với bà C trả nợ cho ông vì ông B biết sự việc nhưng không có ý kiến gì. Hội đồng xét xử xét thấy, nội dung và hình thức của giấy mượn nợ là phù hợp với quy định tại Điều 122 của Bộ luật Dân sự năm 2005; do bà C, ông B đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên ông Đồng yêu cầu bà C, ông B có nghĩa vụ trả số tiền lãi tương ứng với thời gian vi phạm nêu trên là 89.040.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 474, Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay; xét thấy việc vay mượn tiền giữa các bên thể hiện không có lãi suất nên phải điều chỉnh lại tiền lãi suất theo quy định của pháp luật, qua giải thích của Hội đồng xét xử, phía nguyên đơn ông Lê A đồng ý giảm bớt cho phía bị đơn là 07 tháng tiền lãi. Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp nên được chấp nhận. Như vậy tiền lãi được cấp sơ thẩm tính từ ngày 4/01/2010 đến ngày xét xử sơ thẩm là ngày 09/11/2018. Tiền lãi được tính như sau: 132.500.000 đồng x 0,7% x 96 (tháng) = 89.040.000 đồng (Tám mươi chín triệu, không trăm bốn mươi ngàn đồng chẳn).

Trừ 7 tháng tiền lãi (mỗi tháng 927.500 đồng x 7 tháng = 6.492.500 đồng) Tổng cộng tiền vốn và lãi là: (132.500.000 đồng + 89.040.000 đồng) = 215.047.500 đồng (Hai trăm mười lăm triệu, không trăm bốn mươi bảy ngàn, năm trăm đồng).

Do đó, cấp phúc thẩm nhận thấy yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn số tiền 215.047.500 đồng (gồm tiền nợ gốc 132.500.000 đồng và tiền lãi là 89.040.000 đồng) là có sơ sở chấp nhận.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn cho rằng còn nợ nguyên đơn số tiền 7.000.000 đồng là tiền lãi của lần vay 13,5 chỉ vàng và không có vay của nguyên đơn số tiền 132.500.000 đồng theo như giấy mượn nợ ngày 04/5/2009 vì cho rằng giấy vay mượn do ông Đồng giả mạo chữ ký.

[2.1] Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên tòa sơ thẩm ông Đồng tự nguyện rút yêu cầu bà C, ông B trả cho ông và bà D tiền lãi của 13,5 chỉ vàng là 7.000.000 đồng và bản án sơ thẩm đã tuyên đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này. Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm nên cấp phúc thẩm không xem xét yêu cầu của bị đơn được trả cho nguyên đơn 7.000.000 đồng là số tiền lãi của 13,5 chỉ vàng.

[2.2] Trong suốt quá trình xét xử sơ thẩm, bị đơn đã được tống đạt thông báo thụ lý, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập nhưng bị đơn đều vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu của nguyên đơn cho Tòa án. Căn cứ quy định tại Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự, thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để Tòa án xem xét giải quyết. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn không cung cấp được chứng cứ nào khác để chứng minh giấy mượn nợ ngày 04/5/2009 là do nguyên đơn giả mạo.

Vì vậy, cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn và sửa 1 phần bản án sơ thẩm. Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát được chấp nhận.

[3] Về án phí: Các đương sự gồm ông, bà Nguyễn Ngọc B và Nguyễn Thị C phải chịu là: 215.047.500 đồng x 5% là : 10.752.375 đồng (Mười triệu bảy trăm năm mươi hai ngàn ba trăm bảy mươi lăm đồng) tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền. Căn cứ và Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về án phí, lệ phí và căn cứ Điều 2 Luật người cao tuổi năm 2009, xét thấy người kháng cáo thuộc trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định cuả pháp luật. Do đó, ông B và bà C không phải nộp tiền án phí .

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 148 và Khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng: Các Điều 471, 474, 476 của Bộ luật dân sự năm 2005; Áp dụng: Điều 357 và 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Áp dụng: Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Áp dụng: Luật thi hành án dân sự. Xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Ngọc B.

2. Sửa một phần bản án sơ thẩm:

Buộc bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Ngọc B phải thanh toán cho ông Lê A và bà Nguyễn Thị D số tiền 215.047.500 đồng (Hai trăm mười lăm triệu không trăm bốn mươi bảy nghìn năm trăm đồng).

Thời gian và cách trả: Trả một lần ngày sau khi bản án phát sinh hiệu lực. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Giấy mượn nợ ngày 04/5/2009 giữa ông Lê A và bà Nguyễn Thị C không còn giá trị pháp lý.

Khi bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Ngọc B thanh toán đủ cho ông Đồng, bà D số tiền 215.047.500 đồng thì ông Đồng có trách nhiệm trả cho bà C và ông B bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 109301, số vào sổ cấp GCN: CH03569 do Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi cấp ngày 16/12/2014. Trường hợp ông Đồng không giao trả thì bà Nguyễn Thị C liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của ông Lê A về việc buộc bị đơn là vợ chồng ông Nguyễn Ngọc B và bà Nguyễn Thị C phải trả tiền lãi của 13,5 chỉ vàng hiệu 9999 là 7.000.000 đồng.

3. Về án phí:

- Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Ngọc B không phải chịu tiền án phí.

- Về án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Ngọc B không phải chịu án phí phúc thẩm.

4. Về thi hánh án: Việc Thi hành án tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự đươc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 174/2020/DS-PT ngày 17/03/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:174/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về