Bản án 174/2018/HNGĐ-ST ngày 29/08/2018 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 174/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 29 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 542/2018/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 6 năm 2018 về việc xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 497/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị M, sinh năm 1979 (có mặt).

Địa chỉ: Số 221/69, đường K, khóm 3, phường 6, thành phố M, tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: Ông Đặng Văn N (Hoàng N), sinh năm 1976 (vắng mặt).

Địa chỉ nơi cư trú cuối cùng: Số 221/67, đường K, khóm 3, phường 6, thành phố M,  tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về hôn nhân, bà Lê Thị M và ông Đặng Văn N (Hoàng N) chung sống vợ chồng vào năm 1996, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hàng Vịnh, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Minh Hải (nay là tỉnh Cà Mau). Sau khi kết hôn, ông bà sống tại địa chỉ: Số 221/67, đường K, khóm 3, phường 6, thành phố M, tỉnh Cà Mau. Quá trình chung sống do bà M phát hiện ông N có người phụ nữ khác và có con riêng nên bà và ông N phát sinh mâu thuẫn, ông N đã bỏ nhà ra đi từ năm 2003 đến nay không rõ tung tích còn sống hay đã chết. Sự việc trên, được cơ quan quản lý hộ khẩu, nhân khẩu thường trú ở địa phương xác nhận và được Toà án nhân dân thành phố Cà Mau ra các Quyết định thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú ngày 23/5/2017, Quyết định tuyên bố ông N mất tích ngày 12/4/2018 nhưng đến thời điểm Toà án mở phiên toà xét xử việc bà M xin ly hôn với ông N, bà M cũng không biết được tung tích của ông N. Nay bà M yêu cầu Toà án giải quyết cho bà ly hôn với ông N.

Về con chung, quá trình chung sống bà M khai vợ chồng có có 02 người con tên Đặng Văn P, sinh năm 1997 và Đặng Thị Hồng Q sinh ngày 19/4/2000. Hiện các con đã trưởng thành nên bà không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung, bà M khai không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hôn nhân, bà M và ông N chung sống với nhau vào năm 1996, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện H, tỉnh Minh Hải (nay là tỉnh Cà Mau) theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông bà được công nhận là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Do ông N đã bị Tòa án ra quyết định tuyên bố mất tích nên trong thời gian giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo luật định để thông báo cho ông N biết về các vấn đề người khởi kiện yêu cầu nhưng đến nay, Tòa án cũng không nhận được bất kỳ tài liệu, chứng cứ hoặc ý kiến nào của ông N đối với yêu cầu của bà M. Vì vậy, lời trình bày của bà M về thời gian chung sống, kết hôn và mâu thuẫn là có căn cứ. Trên cơ sở lời trình bày của bà M về việc ông N bỏ nhà đi từ năm 2003 đến nay không rõ tung tích, từ đó có đủ căn cứ để xác định tình trạng hôn nhân giữa bà M và ông N đã đến mức trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà M về việc xin ly hôn với ông N.

[2] Về con chung: Có 02 người con tên Đặng Văn P, sinh năm 1997 và Đặng Thị Hồng Q, sinh ngày 19/4/2000. Hiện những người con đã trưởng thành nên không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về tài sản chung và nợ chung, bà M khai không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí, bà M phải nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ các Điều 147, 207, 227, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị M về việc xin ly hôn ông Đặng Văn N (Hoàng N).

- Về con chung, có 02 người con tên Đặng Văn P, sinh năm 1997 và Đặng Thị Hồng Q sinh ngày 19/4/2000. Hiện các con đã trưởng thành nên không đặt ra trách nhiệm nuôi dưỡng.

- Về tài sản chung và nợ chung, bà M khai không có nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình: Bà Lê Thị M phải nộp số tiền 300.000đ. Vào ngày 07/6/2018, bà M đã dự nộp 300.000đ theo biên lai số 0000895 được đối trừ, chuyển thu sung quỹ Nhà nước.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bà Lê Thị M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Đặng Văn N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 174/2018/HNGĐ-ST ngày 29/08/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:174/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về