Bản án 173/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QO, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 173/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 

Ngày 21 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện QO, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 75/2020/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2020, về việc tranh chấp ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXX-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn : Chị Sỹ Thị N, sinh năm 1989. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn 3, XómQ, xã CH, huyện QO, thành phố Hà Nội.

* Bị đơn : Anh Vương Sỹ H, sinh năm 1984. Vắng mặt không lý do.

Địa chỉ: Thôn 3, XómQ, xã CH, huyện QO, thành phố Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Sỹ Thị N trình bày như sau:

 Chị và anh Vương Sỹ H có thời gian tìm hiểu nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 15/5/2007 tại UBND xã CH, huyện QO, thành phố Hà Nội và tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng gia đình nhà chồng. Cuộc sống chung vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc bình thường cho đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H không quan tâm đến gia đình, bất đồng về quan điểm sống và phương pháp nuôi dạy con chung, vợ chồng đã sống ly thân, không thể về đoàn tụ chung sống lâu dài. Chị N xác định tình cảm hạnh phúc vợ chồng thực tế không còn, có yêu cầu đề nghị Toà án giải quyết ly hôn với anh H.

Yêu cầu khởi kiện của chị N: Chị N mâu thuẫn vợ chồng gay gắt trầm trọng, đã sống lý thân từ tháng 11 năm 2019 đến nay quan hệ tình cảm gì. Chị N xét thấy tình cảm, hạnh phúc vợ chồng thực sự không còn, không thể về đoàn tụ chung sống lâu dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Toà án sớm giải quyết cho chị được ly hôn với anh H để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Vương Sỹ T, sinh ngày 09/5/2008 hiện đang ở với anh H. Con chung Vương Sỹ Thị Hà L, sinh ngày 09/02/2010 hiện đang ở với chị N. Các con chung đều khỏe mạnh phát triển, học tập bình thường. Vợ chồng ly hôn nguyện vọng chị N xin được trực tiếp nuôi 02 con chung, nếu không được thì chị xin nhận tiếp tục nuôi con chung Vương Sỹ Thị Hà L. Đồng ý để anh H tiếp tục nuôi con chung Vương Sỹ T đến khi các con chung trưởng thành. Không ai phải đóng góp tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, công sức đóng góp, các khoản vay hoặc cho vay tài sản của vợ chồng: Không yêu cầu giải quyết.

Hiện nay chị N đang làm công nhân cho Công ty TNHH bán lẻ hàng Nhật nội địa SaKuKa thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 5 đến 7 tiệu đồng.

Yêu cầu của anh Vương Sỹ H: Anh thừa nhận về điều kiện kết hôn, thực tế cuộc sống chung vợ chồng không còn tồn tại như chị N trình bày là đúng, tuy nhiên anh không đồng ý ly hôn, anh vẫn còn tình cảm vợ chồng mong muốn chị N về đoàn tụ chung sống nuôi dạy các con. Vì chị N tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, chứ anh không đuổi chị N. Nhiều lần anh có đến trao đổi với chị N, nhưng chị N cương quyết không về đoàn tụ chung sống. Anh đề nghị giải quyết trách nhiệm nuôi con chung theo quy định pháp luật. Anh trực tiếp nuôi con chung nào cũng được. Hiện nay anh H làm nghề tự do.

Về tài sản chung, công sức đóng góp, các khoản vay hoặc cho vay tài sản của vợ chồng: Không yêu cầu giải quyết Theo bà Đắc Thị Hoàn là Chi hội trưởng hội phụ nữ xã Công Hòa, huyện QO cung cấp: Chị Sỹ Thị N và anh Vương Sỹ H tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại UBND xã CH ngày 15/5/2007, sau khi sinh 02 con chung thì vợ chồng đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản đến cuối năm 2019 vợ chồng về nước sinh sống tại địa phương.

Về tình cảm vợ chồng có mâu thuẫn gay gắt đến mức ầm ĩ cả xã, chính quyền, thôn xóm và đoàn thể đã hòa giải nhiều lần, nhưng không có kết quả. Lý do mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ kinh tế khó khăn chị N bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, anh H nhiều lần gọi điện để chị N trở về chung sống, nhưng chị không đồng ý về đoàn tụ, nên anh H có chửi bới đe dọa gia đình chị N và có lần hai bên xảy ra xô xát Công an và chính quyền xã phải can thiệp giải quyết.

Chị N nguyện vọng xin sớm được ly hôn với anh H. Còn anh H muốn vợ chồng đoàn tụ, việc này đề nghị Tòa xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên là Vương Sỹ T, sinh ngày 09/5/2008 và Vương Sỹ Thị Hà L, sinh ngày 09/02/2010. Hiện nay cháu T ở với bố, cháu L ở với mẹ, các con chung đều khỏe mạnh, học tập phát triển bình thường, cuộc sống của các cháu hiện nay ổn định, các cháu vẫn đi lại cả hai bên nội ngoại.

Các tài liệu, chứng cứ của vụ án: Giấy chứng nhận kết hôn; Trích lục khai sinh con chung; Giấy chứng minh thư nhân dân của chị N, Xác nhận cư trú anh H, chị N.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về việc thực hiện tố tụng của Toà án và các đương sự: Quá trình tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà hôm nay Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự thủ tục của phiên toà sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị Sỹ Thị N và anh Vương Sỹ H kết hôn hợp pháp. Quá trình chung sống thường xảy ra mâu thuẫn gay gắt trầm trọng, vợ chồng không hạnh phúc do bất đồng quan điểm sống, kinh tế, dẫn đến tháng 11 năm 2019 chị N đã về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không có quan hệ tình cảm gì. Nay chị N xác định tình cảm hạnh phúc vợ chồng thực sự không còn, không thể về đoàn tụ chung sống lâu dài, mục đích hôn nhân không đạt được, có đơn yêu cầu được ly hôn với anh H, để ổn định cuộc sống.

Anh H cho rằng anh tình cảm vợ chồng vẫn còn, nên anh không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, thực tế mối quan hệ vợ chồng không cải thiện được trong thời gian dài hoà giải, nên yêu cầu ly hôn của chị N là có căn cứ đề nghị HĐXX chấp nhận.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Vương Sỹ T, sinh ngày 09/5/2008 và Vương Sỹ Thị Hà L, sinh ngày 09/02/2010. Hiện cháu T đang ở với anh H đề nghị HĐXX nên tiếp tục giao cho anh H chăm sóc nuôi dưỡng, cháu L hiện ở với mẹ tiếp tục giao cho chị N chăm sóc nuôi dưỡng.

Tạm hoãn việc đóng góp tiền nuôi con chung cho anh H, chị N, cho đến khi có quyết định thay đổi khác và các bên có quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở, là phù hợp quy định của pháp luật.

Về tài sản chung, công sức đóng góp, các khoản vay hoặc cho vay tài sản của vợ chồng: Anh H, chị N không đề nghị giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đó được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Vương Sỹ H cư trú tại thôn 3, xã CH, huyện QO, thành phố Hà Nội nên chị N khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện QO giải quyết ly hôn là đúng thẩm quyền theo Điều 28 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn anh Vương Sỹ H chỉ tham gia tố tụng giải quyết tại Tòa án giai đoan ban đầu công khai chứng cứ và hòa giải. Nhưng khi Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án, thì đều vắng mặt không lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết. Tòa án đã phải hoãn phiên tòa và tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật giải quyết vụ án theo Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Sỹ Thị N và anh Vương Sỹ H kết hôn hợp pháp. Quá trình chung sống không hạnh phúc, năm 2009 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn lý do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và phương pháp nuôi dạy con, tình tình không hợp, thường xuyên xảy ra việc cãi chửi nhau, đã sống ly thân không còn quan tâm thương yêu tôn trọng nhau, mâu thuẫn gay gắt trầm trọng, tình cảm hạnh phúc thực sự không còn, không thể về đoàn tụ chung sống lâu dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét nên cần chấp nhận yêu cầu của chị N, giải quyết cho chị N được ly hôn với anh H phù hợp với điều Điều 51, Điều 56 và Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Vương Sỹ T, sinh ngày 09/5/2008 và Vương Sỹ Thị Hà L, sinh ngày 09/02/2010. Từ nhỏ đến nay cháu T đang ở với anh H, nên tiếp tục giao cho anh H chăm sóc nuôi dưỡng, cháu L hiện đang ở với mẹ nên tiếp tục giao cho chị N chăm sóc nuôi dưỡng, phù hợp với nguyện vọng của các con chung. Tạm hoãn việc đóng góp tiền nuôi con chung cho chị N, anh H. Chị N, anh H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, công sức đóng góp, các khoản vay hoặc cho vay tài sản của vợ chồng: Chị N, anh H không yêu cầu Toà án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Sỹ Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị N, anh H được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57; Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình:

Căn cứ khoản 4 Điều 147; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Sỹ Thị N được ly hôn anh Vương Sỹ H Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Vương Sỹ T, sinh ngày 09/5/2008 và Vương Sỹ Thị Hà L, sinh ngày 09/02/2010. Giao chị N tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung Vương Sỹ Thị Hà L. Giao anh H tiếp tục trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung Vương Sỹ T đến khi các con trung trưởng thành, đủ 18 tuổi hoặc đến khi có quyết định thay đổi khác. Tạm hoãn việc đóng góp tiền nuôi con chung cho anh H, chị N. Anh H, chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về tài sản chung, công sức đóng góp, các khoản vay hoặc cho vay tài sản của vợ chồng: Anh H, chị N không yêu cầu giải quyết.

Về án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Được trừ đủ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp. Theo biên lai số AA/2016/0011085 ngày 13/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện QO, thành phố Hà Nội.

Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 173/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:173/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quốc Oai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về