Bản án 173/2018/HNGĐ-ST ngày 18/10/2018 về tranh chấp ly hôn và con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 173/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ CON CHUNG

Trong ngày 18/10/2018 tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 562/2018/TLST – HNGĐ ngày 01/8/2018 về “Tranh chấp ly hôn và con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 183/2018/QĐXXST– HNGĐ ngày 02/10/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Diễm N, sinh năm 1995.

Địa chỉ: Số A, ấp C, xã TH, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn K, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Số A, ấp C, xã TH, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

Chị N có mặt; anh K có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn, chị Nguyễn Thị Diễm N trình bày:

Chị và anh Phạm Văn K tự nguyện kết hôn với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TH, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. Thời gian đầu, vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. Đến tháng 6/2015 vợ chồng phát sinh Nều mâu thuẫn do anh K sử dụng ma túy đá, cờ bạc và ngoại tình. Từ khi phát sinh mâu thuẫn đến nay chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống tới nay. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin ly hôn.

Về con chung: Có 01 con tên Nguyễn Ch, sinh ngày 04/01/2015. Ly hôn, chị xin nuôi con, không yêu cầu anh K cấp dưỡng.

Về tài sản chung: không có.

Về nợ chung: không có.

* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 20/8/2018, anh Phạm Văn K trình bày:

Anh và chị N kết hôn với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TH, huyện LT. Quá trình chung sống không hạnh phúc. Nguyên nhân là do mâu thuẫn với gia đình bên vợ nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Từ tháng 4/2015 chị N đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống. Do gia đình bên vợ không cho gặp nên vợ chồng không hàn gắn, đoàn tụ với nhau được. Nay, anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn nhưng chị N kiên quyết ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Về con chung: Có 01 con tên Nguyễn Ch, sinh ngày 04/01/2015. Ly hôn, anh đồng ý giao cháu Ch cho chị N nuôi dưỡng, tạm thời anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không có. Về nợ chung: không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành có ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký: Về việc thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, tư cách tố tụng, về việc xác minh, thu thập các tài liệu chứng cứ vụ án và thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử đều được Thẩm phán thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng Nệm vụ, quyền hạn của mình.

- Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị N và anh K được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên được pháp luật bảo vệ. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên đề nghị chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Diễm N.

Về con chung: Có 01 con tên Nguyễn Ch, sinh ngày 04/01/2015. Các bên đều thống nhất giao cháu cho chị N nuôi dưỡng, tạm thời anh K không phải cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Tòa án ghi nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Thẩm quyền giải quyết vụ án: Anh Phạm Văn K hiện đang cư trú tại xã TH, huyện LT, tỉnh Đồng Nai nên Tòa án nhân dân huyện Long Thành thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1, Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Thị Diễm N khởi kiện xin được ly hôn với anh Phạm Văn K và giải quyết vấn đề con chung, Tòa án nhân dân huyện Long Thành căn cứ vào khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ là “Tranh chấp ly hôn và con chung”.

- Bị đơn anh Phạm Văn K có đơn xin vắng mặt trong các buổi xét xử. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Nội dụng vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Diễm N và anh Phạm Văn K kết hôn với nhau năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TH, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. Hôn nhân giữa chị N và anh K là hôn nhân hợp pháp nên khi có yêu cầu ly hôn, Tòa án áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

Theo chị N và anh K trình bày thì trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn nên chị N đã về nhà bố mẹ đẻ sống từ tháng 4 năm 2015 tới nay. Mặc dù các đương sự trình bày khác nhau nhưng đều thừa nhận vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Tuy anh K vẫn còn tình cảm nhưng lại không đến Tòa án làm việc, hòa giải chứng tỏ anh K cũng không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình nữa. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, mặc dù được Tòa án vận động, thuyết phục để rút đơn ly hôn, vợ chồng hàn gắn đoàn tụ nhưng chị N không đồng ý. Do đó, chấp nhận đơn xin ly hôn của chị N, cho chị Nguyễn Thị Diễm N được ly hôn với anh Phạm Văn K là phù hợp.

Về con chung: Có 01 con tên Nguyễn Ch, sinh ngày 04/01/2015. Sau khi ly hôn, các bên đều thống nhất giao cháu Ch cho chị N nuôi dưỡng, tạm thời anh K không phải cấp dưỡng nuôi con. Việc giao con cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên ghi nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí HNGĐ- ST: Chị N phải nộp 300.000đ án phí ly hôn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 203, 220; khoản 1 Điều 228; Điều 235, 264, 266 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Diễm N.

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Diễm N được ly hôn với anh Phạm Văn K.

Về con chung: Có 01 con tên Nguyễn Ch, sinh ngày 04/01/2015.

Giao cháu Ch cho chị N trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, tạm thời anh K không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh K được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì quyền lợi của trẻ, khi cần thiết các bên được quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Về án phí HNGĐ – ST: Chị N phải nộp 300.000đ, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành theo biên lai thu số 006550 ngày 26/7/2018.

Chị N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 173/2018/HNGĐ-ST ngày 18/10/2018 về tranh chấp ly hôn và con chung

Số hiệu:173/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về