TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 172/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/07/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 02/7/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:171/2021/TLST-HNGĐ ngày 07/5/2021, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/5/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 37/QĐST-HNGĐ ngày 22/6/2021, giữa các bên đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Trung N, sinh năm 1985;
Địa chỉ: thôn X, xã Ân Hảo Tây, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thúy Ng, sinh năm 1999;
Địa chỉ: thôn X, xã Ân Hảo Tây, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ 2 không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày 04/5/2021 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn ông Trần Trung N trình bày:
Về hôn nhân: Ông và bà Nguyễn Thị Thúy Ng có tìm hiểu và tự nguyện đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Ân Hảo Tây, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định vào ngày 26/02/2020. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại thôn X, xã Ân Hảo Tây, huyện Hoài Ân. Sau đó, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, lý do vợ chồng không cùng quan điểm sống, thường xuyên tranh cãi; bà Ng thường xuyên xa lánh ông nên vợ chồng không thể hòa hợp. Từ tháng 4/2020, bà Ng bỏ đi làm ăn ở đâu ông không rõ; từ đó đến nay vợ chồng không còn sống chung với nhau. Nay, ông xét thấy không còn tình cảm nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn bà Nguyễn Thị Thúy Ng.
Về con chung: Không có.
Về tài sản chung, nợ chung: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy Ng: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã thực hiện thủ tục tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, theo quy định tại Điều 177; 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nhưng bà Ng không đến Tòa án trình bày ý kiến và hòa giải, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bà. Do đó Tòa án vẫn tiến hành các thủ tục tố tụng và đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
- Đại diện Viện kiểm sát huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Trong giai đoạn thụ lý hồ sơ, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Về hôn nhân: Xét thấy tình cảm vợ chồng ông Trần Trung N, bà Nguyễn Thị Thúy Ng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được; nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho ông Trần Trung N ly hôn bà Nguyễn Thị Thúy Ng.
Về con chung: Không có, không xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân nhận định.
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn ông Trần Trung N có đơn yêu cầu ly hôn bà Nguyễn Thị Thúy Ng. Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy Ng có hộ khẩu thường trú tại xã Ân Hảo Tây, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân.
Tại phiên tòa hôm nay bà Nguyễn Thị Thúy Ng được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt, bà Ng không có yêu cầu phản tố, không có người đại diện tham gia phiên tòa; ông Trần Trung N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Ng, ông N.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Trung N và bà Nguyễn Thị Thúy Ng có tìm hiểu và tự nguyện đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Ân Hảo Tây, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định vào ngày 26/02/2020, nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại thôn X, xã Ân Hảo Tây, huyện Hoài Ân. Sau đó, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, theo ông N trình bày là do vợ chồng không cùng quan điểm sống, thường xuyên tranh cãi; bà Ng thường xuyên xa lánh ông, nên vợ chồng không thể hòa hợp. ông N và bà Ng không sống cùng nhau từ tháng 4/2020. Từ đó đến nay, phần ai nấy sống, không quan tâm chăm sóc nhau, làm cho cuộc sống vợ chồng ông bà không còn hạnh phúc, mục đích của hôn nhân đã không đạt được. Nay, ông N yêu cầu ly hôn bà Ng là có căn cứ để chấp nhận.
Còn đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy Ng: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành các thủ tục thông báo thụ lý và thông báo các phiên họp công khai chứng cứ, hòa giải hợp lệ, nhưng tất cả các buổi làm việc tại Tòa án bà Ng đều vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay, bà Ng cũng không có mặt, điều này chứng tỏ bà Ng cũng không muốn níu kéo tình cảm vợ chồng, không muốn níu kéo cuộc hôn nhân của bà với ông N. Nên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại các Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[3] Về con chung: Không có, không xem xét.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.
[5] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Ân là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.
[6] Về án phí: ông Trần Trung N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm; theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 266;khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 51; Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Ông Trần Trung N được ly hôn bà Nguyễn Thị Thúy Ng.
2. Về con chung: Không có, không xem xét.
3. Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét.
4. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm, ông Trần Trung N phải nộp 300.000 đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0010297 ngày 06/5/2021, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoài Ân.
5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bình định xét xử Phúc thẩm.
Bản án 172/2021/HNGĐ-ST ngày 02/07/2021 về ly hôn
Số hiệu: | 172/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoài Ân - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về