Bản án 172/2020/HS-PT ngày 24/11/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 172/2020/HS-PT NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24 tháng 11 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm, thụ lý số 127/2020/TLPT-HS ngày 19 tháng 10 năm 2020, do có kháng cáo của bị cáo Phạm Văn B và các bị cáo khác đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2020/HSST ngày 07/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Văn B, tên gọi khác: Không; sinh ngày 07/6/1986; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm LL, xã BTh, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Ngọc Ph1 và bà Đoàn Thị Ch1; có vợ là Ma Thị Th1, có 02 con chung, con lớn nhất sinh năm 2016, con nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương. Có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Văn Gi, tên gọi khác: Không; sinh ngày 17/10/1982; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm LL, xã BTh, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Ngọc Ph1 và bà Đoàn Thị Ch1; có vợ là Đào Thị M2, có 03 con chung, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Kh ông;

Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 04/QĐ - XPVPHC ngày 30/7/2015 của Công an xã B6 Thành, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Phạm Văn Gi 1.000.000đ về hành vi đánh bạc.

1 Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương. Có mặt tại phiên tòa.

3. Phạm Văn L, tên gọi khác: Không; sinh ngày 02/7/1984; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm HTh, xã BTh, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Xuân Ch3 và bà Đặng Thị Y3; có vợ là Hoàng Thị T3, có 02 con chung, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương. Có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Văn H, tên gọi khác: Không; sinh ngày 24/8/1977; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm ĐTh, xã BTh, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H4 và bà Dương Thị M4; có vợ là Ma Thị Ng4, có 03 con chung, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày nào, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương. Có mặt tại phiên tòa.

5. Đinh Văn Ch, tên gọi khác: Không; sinh ngày 30/9/1990; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm ĐTh, xã BTh, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đinh Văn Th5 và bà Dương Thị Đ5; có vợ là Ma Thị Thu Th5, có 02 con chung, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; B ị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/3/2020 đến ngày 04/6/2020, được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

Trong vụ án này còn có bị cáo Dương Đình L6 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị, vắng mặt do Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 20 phút, ngày 23/01/2020, Tổ công tác Công an huyện Định Hóa phát hiện tại khu di tích TrĐ NAQ, thuộc xóm LL, xã BTh, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên có nhiều đối tượng đang đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang tại nhà sinh viên số 01 của khu di tích có các đối tượng Phạm Văn L, Dương Đình L6, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ch, Phạm Văn Gi, Phạm Văn B đều trú tại xã BTh, đang đánh bạc, sát phạt nhau bằng tiền, hình thức “chơi liêng”. Thu giữ tại chiếu bạc:

5.391.000đ (năm triệu ba trăm chín mươi mốt nghìn đồng); 52 quân bài tây; 01 chiếu nhựa cũ. Tổ công tác Công an huyện Định Hóa đã tiến hành niêm phong theo quy định. Ngoài ra còn tạm giữ của: Phạm Văn B 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo 1811, màu đen, số imei: 862275045931172; thu giữ của Đinh Văn Ch 01 xe mô tô nhãn hiệu Detech, màu đen BKS: 20N1-5661 và 01 ví giả da, màu nâu, bên trong có 332.000đ (ba trăm ba mươi hai nghìn đồng); thu giữ của Phạm Văn Gi 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Airblade BKS: 20C1-21632 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7, màu vàng cát, số Imei: 353317094527968; thu giữ của Nguyễn Văn H 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, số Imei: 356542088054569; thu giữ của Phạm Văn L 01 điện thoại nhãn hiệu Lenovo, màu trắng, số Imei: 867802023094734 và 01 ví giả da, màu đen, bên trong ví có 200.000đ (hai trăm nghìn đồng); thu giữ trong người Dương Đình L6 2.490.000đ (hai triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng), Tổ công tác đã lập biên B tạm giữ đồ vật tài liệu theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra các đối tượng khai: Vào khoảng 18 giờ, ngày 23/01/2020, Ch, H, L6, B và Hoàng Văn B6 gặp và uống bia với nhau tại quán bia ở xã BTh, huyện ĐH. Trong lúc ngồi uống bia H nảy sinh ý định đánh bạc và rủ Ch, L6, B cùng chơi. Sau đó B mua 01 bộ bài tây có 52 quân và cùng L6, Ch, H rủ nhau lên khu di tích TrĐ NAQ để đánh bạc. Khi lên đến nơi cả 04 người gặp ông Chu Văn Ch6 người ở Hà Nội là bảo vệ công trình tu bổ di tích, B xin ông Ch6 cho nhóm của mình đánh bài trong phòng của ông Ch6 nhưng ông Ch6 không cho. Tuy nhiên B tiếp tục xin và chủ động đi vào trong phòng của ông Ch6 để đánh bạc. Do là người địa phương khác đến tạm trú và làm bảo vệ công trình gần nhà của B và trong điều kiện đêm tối giáp tết không có ai bảo vệ cùng và thấy cả 04 đối tượng đều đã uống rượu nhiều nên ông Ch6 không nói gì và không phản ứng gì thêm. Cùng lúc đó B, H, L6, Ch đi vào trong phòng ông Ch6, ngồi lên chiếu trải sẵn trên sạp (nơi ông Ch6 ngủ) và cùng nhau đánh bạc.

Dng cụ để đánh bạc là bộ bài tây 52 quân. Hình thức đánh bạc: Các đối tượng thỏa thuận với nhau đánh bạc bằng hình thức chơi liêng, sát phạt nhau bằng tiền, mức cược đặt cược vào bàn chơi (góp gà) là 20.000đ (hai mươi nghìn đồng), mức cược thấp nhất là 20.000đ (hai mươi nghìn đồng), cao nhất là 100.000đ (một trăm nghìn đồng. Cách chơi: Khi bắt đầu chơi, những người chơi sẽ góp gà, sau đó một người chơi sẽ chia cho mỗi người 03 (ba) lá bài. Người chơi sẽ tiến hành đánh theo lượt, theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, người chơi đầu tiên sẽ là chủ bàn chơi hoặc người đã thắng ván trước đó. Sau đó người chia bài, người thắng ván trước đó sẽ tố bài, nếu người chơi tiếp theo không theo người tố sẽ úp bài, người nào theo để tiếp tục ván chơi sẽ bỏ số tiền vào bàn theo số tiền người tố và có thể tố thêm tiền. Kết thúc ván bài là khi chỉ còn một người không úp bỏ, hoặc không ai trên bàn tố thêm tiền nữa. Nếu chỉ còn một người theo bài để đánh thì người này sẽ là người thắng cuối cùng. Nếu có hơn một người vẫn còn chơi thì sẽ tiến hành so bài những người này để tìm người thắng cuộc. Việc so bài được tính theo thứ tự từ lớn đến bé gồm: Sáp lớn nhất: Ba quân bài có số giống nhau. Nếu 2 người chơi cùng được sáp sẽ so sánh giá trị quân bài theo thứ tự 2, 3, … K, A (Bộ sáp Át sẽ là bộ to nhất). Liêng: là bộ bài có 3 quân liên tiếp nhau không cần cùng chất (Chấp nhận cả bộ A, 2, 3 và Q, K, A). Nếu cùng là liêng thì cũng so sánh giá trị quân bài lớn nhất như sáp (bộ A, 2, 3 là bộ nhỏ nhất. Bộ Q, K, A là bộ lớn nhất). Hai bộ liêng có cùng giá trị coi như bằng nhau (Không so sánh chất). Đồng hoa: Nếu bộ bài không phải là Sáp hoặc Liêng, nhưng tất cả 3 quân đều là đầu người (J, Q, K) thì gọi là ảnh. Tính điểm: Không phải Sáp, Liêng, ảnh, người chơi sẽ cộng giá trị các quân trong bài để tính điểm. (A: 1 điểm; 10, J, Q, K tính là 0 điểm). Điểm của bài chỉ tính hàng đơn vị trong trường hợp điểm lớn hơn 9. Sau khi kết thúc ván, người chơi không bỏ bài nào có bộ bài mang giá trị cao nhất sẽ là người thắng cuộc.

Ban đầu đánh bạc có 04 đối tượng là Dương Đình L6 có 2.990.000đ (hai triệu chín trăm chín mươi nghìn đồng) L6 lấy ra 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) để đánh bạc, còn lại 2.490.000đ (hai triệu bốn trăm chín mươi nghìn đồng), L6 để trong người mục đích để mua thịt lợn tết, không dùng để đánh bạc. Phạm Văn B có khoảng 800.000đ (tám trăm nghìn đồng) dùng để đánh bạc. Đinh Văn Ch có 432.000đ (bốn trăm ba mươi hai nghìn đồng) dùng để đánh bạc. Nguyễn Văn H có khoảng 401.000đ (bốn trăm linh một nghìn đồng) dùng để đánh bạc. Các đối tượng bắt đầu chơi từ khoảng 18 giờ 30 phút, khi chơi được khoảng 15 phút thì có Hoàng Văn B6 và Đinh Văn Th8 đến và cùng tham gia đánh bạc. 06 đối tượng chơi được khoảng 10 phút sau thì Phạm Văn Gi đến và cùng tham gia đánh bạc. Khi tham gia đánh bạc, Gi có 380.000đ (ba trăm tám mươi nghìn đồng). Cả 07 người: Ch, H, L6, B, B6, Th8, Gi cùng nhau đánh bạc được khoảng 10 (mười) phút thì B6, Th8 nói hết tiền và đi về. Còn lại L6, B, Gi, H, Ch tiếp tục đánh bạc. Khi đang ngồi chơi, Gi nhận được điện thoại của Phạm Văn L hỏi ở đâu, thì Gi nói “đang đánh bài cứ lên nhà chơi”, một lúc sau thì L đến và cùng tham gia đánh bạc với Gi, B, L6, Ch, H. Khi tham Gi đánh bạc, L có khoảng 1.300.000đ (một triệu ba trăm nghìn đồng), L đã bỏ ra khoảng 1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng) để đánh bạc, còn 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) cất trong ví, L xác định nếu thua hết cũng sẽ sử dụng để đánh bạc. Các con bạc đánh đến khoảng 20 giờ cùng ngày thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc: 5.391.000đ (năm triệu ba trăm chín mươi mốt nghìn đồng).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 26/2020/HSST ngày 07/9/2020, Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên đã tuyên bố các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn Gi, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ch phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Phạm Văn B 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành B án. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

+ Xử phạt bị cáo Phạm Văn Gi 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành B án. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

+ Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành B án. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành B án. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

+ Xử phạt bị cáo Đinh Văn Ch 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành B án, được trừ thời Gin đã bị tạm giữ. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh, hình phạt đối với bị cáo Dương Đình L6; xử lý vật chứng; nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo Bản án theo quy định.

Ngày 13/9/2020 bị cáo Nguyễn Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Ngày 15/9/2020 các bị cáo Phạm Văn Gi, Phạm Văn B, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Ngày 17/9/2020 bị cáo Phạm Văn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Ngày 21/9/2020 bị cáo Đinh Văn Ch kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai nhận về diễn biến hành vi phạm tội đúng như Bản án sơ thẩm đã nêu, các bị cáo xin được cải tạo tại địa phương.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Trong vụ án này, các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H và Đinh Văn Ch đều chưa có tiền án, tiền sự và có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội đúng pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo B, L, H đã nộp toàn bộ số tiền phạt bổ sung và án phí theo quyết định của Bản án sơ thẩm. Xét toàn diện vụ án thấy, các bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo B, L, H và Ch; áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự, cho các bị cáo được hưởng án treo, cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Đi với bị cáo Phạm Văn Gi: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xin rút toàn bộ kháng cáo, xét việc rút kháng cáo của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 342; Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Gi.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H và Đinh Văn Ch, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên hình phạt tù và cho các bị cáo được hưởng án treo.

Các bị cáo không tranh luận với kết luận của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng, các bị cáo bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn Gi, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ch gửi trong thời hạn và đúng theo thủ tục quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 23/01/2020, tại Khu di tích TrĐ NAQ, thuộc xóm LL, xã BTh, huyện ĐH,tỉnh Thái Nguyên, Dương Đình L6, Phạm Văn B, Phạm Văn Gi, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ch, Phạm Văn L đã có hành vi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền bằng hình thức chơi liêng.

Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 20 giờ cùng ngày thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc số tiền là 5.391.000đ (năm triệu ba trăm chín mươi mốt nghìn đồng) và thu giữ các vật chứng liên quan.

Với hành vi trên, các bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo của các bị cáo:

Trong vụ án này các bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giản đơn, không có người tổ chức, phân công hay bàn bạc từ trước, các bị cáo tiếp nhận ý chí của nhau và cùng nhau thực hiện tội phạm, số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc không lớn. Các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ch đều chưa có tiền án, tiền sự và có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo B, L, H đã nộp toàn bộ số tiền phạt bổ sung và án phí theo quyết định của Bản án sơ thẩm, vì vậy các bị cáo B, L và H được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy, các bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng. Căn cứ hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo, xét thấy các bị cáo có đủ các điều kiện để được hưởng án treo, việc cho các bị cáo được hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Đi với bị cáo Phạm Văn Gi, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo rút toàn bộ kháng cáo, xét việc rút kháng cáo của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, Căn cứ Điều 342; 348 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Gi.

Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Kháng cáo của các bị cáo B, L H, Ch được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo Phạm Văn Gi rút toàn bộ kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu L pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 342; Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Phạm Văn Gi, Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2020/HSST ngày 07/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Phạm Văn Gi.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ch; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2020/HSST ngày 07/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên đối với các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ch.

Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ch phạm tội: “Đánh bạc”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn B 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đinh Văn Ch 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Gio các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ch cho Ủy ban nhân dân xã BTh, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo, theo quy định tại Điều 93 Luật thi hành án hình sự.

* Ghi nhận các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn Gi, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H, mỗi bị cáo đã nộp số tiền 10.200.000đ là tiền phạt bổ sung và án phí, tại các biên lai thu tiền số 0004006; 00024007, 0004009, 0004012 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.

3. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Các bị cáo Phạm Văn B, Phạm Văn Gi, Phạm Văn L, Nguyễn Văn H, Đinh Văn Ch không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 26/2020/HSST ngày 07/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 172/2020/HS-PT ngày 24/11/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:172/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về