Bản án 172/2019/HS-ST ngày 06/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 172/2019/HS-ST NGÀY 06/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 166/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 203/2019/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Phúc T, sinh năm: 1999, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: đường TL, khu phố B, phường T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh H và bà Nguyễn Thị L; bản thân chưa có vợ; tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt tạm giam ngày: 15/6/2019 (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 15 phút ngày 15/6/2019, tổ tuần tra Công an quận G kết hợp Công an phường M, quận G bắt quả tang Nguyễn Phúc T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại trước nhà số 897 đường L, Phường M, quận G. Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu đã niêm phong; 01 xe máy biển số 59Y1-71191.

Tại Cơ quan điều tra Công an quận G, Nguyến Phúc T đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 14/6/2019, Nguyễn Phúc T đang ở nhà thì có bạn tên T1 (chưa rõ lai lịch) đến gặp T và đưa T 750.000 đồng cùng xe máy biển số 59Y1-71191 của T1 và kêu T đi mua ma túy tổng hợp với số tiền 600.000 đồng để T và T1 cùng sử dụng, số tiền còn lại 150.000 đồng T1 kêu T nạp vào tài khoản Momo cho T1. Khoảng 01 giờ ngày 15/6/2019, T điều khiển xe máy của T1 biển số 59Y1-71191 đến khu vực cầu A quận G gặp một thanh niên (chưa rõ lai lịch) hỏi mua 600.000 đồng ma túy tổng hợp, thanh niên này đồng ý bán và đưa cho T 01 gói nylon chứa ma túy tổng hợp và T đưa cho thanh niên trên 600.000 đồng. Sau đó, T giấu gói ma túy vừa mua vào túi áo bên trái trước ngực rồi đi nạp tiền vào tài khoản Momo cho T1, khi T đang đứng trước nhà số 897 đường L, phường M, quận G thì bị Công an quận G bắt giữ như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận giám định số: 1298/KLGĐ-H ngày 26/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Phúc T và hình dấu Công an phường M, quận G gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4373g, loại Methamphetamine.

Một xe máy biển số 59Y1-71191 có số khung 01271 số máy 118788. Qua xác minh biển số 59Y1-71191 có số khung 017335, số máy 005975 do anh Đoàn Vĩnh K, sinh năm 1993, ngụ 25/34 đường C, phường T, Quận M đứng tên chủ sở hữu, không trùng khớp với số khung, số máy chiếc xe Cơ quan điều tra đang tạm giữ. Hiện tại anh K đã bán nhà đi khỏi địa phương, không xác đinh được nơi ở mới, nên Cơ quan điều tra chưa thu thập được lời khai. Cơ quan điều tra tiến hành giám định số khung 01271 số máy 118788 chiếc xe đang tạm giữ, kết quả số khung, số máy không đổi. Tiến hành xác minh số khung 01271 số máy 118788, kết quả xác định xe không nằm trong dữ liệu quản lý. Cơ quan điều tra tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có người đến liên hệ.

Đối với người bán ma túy cho T, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch nên chưa có cơ sở để xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Riêng đối tượng T1, T quen biết ngoài xã hội, không biết nhân thân lai lịch và nơi ở nên Cơ quan điều tra chưa có căn cứ để xử lý.

Cơ quan điều tra Công an quận G đã nhập kho vật chứng 01 gói niêm phong chứa ma túy, 01 xe máy biển số 59Y1-71191 theo phiếu nhập kho số: 179/PNK ngày 06/9/2019.

Tại bản cáo trạng số 161/CTr-VKS, ngày 19/9/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận G đã truy tố Nguyễn Phúc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Xử phạt bị cáo Nguyễn Phúc T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Tịch thu và tiêu hủy lượng ma túy thu giữ; tịch thu sung công quỹ Nhà nước chiếc xe gắn máy biển số 59Y1-71191 có số khung 01271 số máy 118788. Miễn phạt bổ sung cho bị cáo. Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận G, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận G, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Phúc T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo tàng trữ ma túy có khối lượng 0,4373g, loại Methaphatamine. Vì vậy, Viện Kiểm sát nhân dân quận G truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có cơ sở.

Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian dài cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định miễn phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Phúc T và hình dấu Công an phường M, quận G gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4373g, loại Methamphetamine. Đây là chất Nhà nước cấm lưu hành và sử dụng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu huỷ.

Đối với một xe máy biển số 59Y1-71191 (biển số giả) có số khung 01271 số máy 118788. Cơ quan điều tra tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có người đến liên hệ. Hội đồng xét xử xét thấy xe không có nguồn gốc rõ ràng và là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.

[6] Đối với người bán ma túy cho T, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch nên chưa có cơ sở để xử lý, khi nào xác định được sẽ xử lý sau. Riêng đối tượng T1, T quen biết ngoài xã hội, không biết nhân thân lai lịch và nơi ở nên Cơ quan điều tra chưa có căn cứ để xử lý là có cơ sở.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phúc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phúc T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 15/6/2019.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu và tiêu hủy 01 gói niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Phúc T và hình dấu của công an Phường M, quận G Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 xe gắn máy biển số 59Y1 – 711.91, số khung RLSBF45XOC01271.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 179/PNK ngày 06/9/2019 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 172/2019/HS-ST ngày 06/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:172/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về