Bản án 172/2019/HS-PT ngày 31/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 172/2019/HS-PT NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 143/2019/TLPT-HS ngày 23/4/2019 đối với bị cáo Đỗ Ngọc L và 02 bị cáo do có kháng cáo của các bị cáo Đỗ Ngọc L, Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H đối với bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HS-ST ngày 14/03/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo kháng cáo:

1. Họ và tên: Đỗ Ngọc L; Sinh ngày 17 tháng 5 năm 1996; Tại: tỉnh Đắk Lắk;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Đường Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông (Không rõ); Con bà: Đỗ Thị T; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 20/11/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 06 tháng tù, về tội Đánh bạc tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 307/2018/HSST.

Bị cáo bị bắt ngày 06/10/2018, hiện đang tạm giam - Có mặt tại phiên tòa

2. Họ và tên: Nguyễn Trọng N; Tên gọi khác: Tý N; Sinh ngày 30 tháng 4 năm 1995; Tại: tỉnh Hà Tĩnh;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Buôn T, xã E, huyện S, tỉnh Phú Yên; Chỗ ở hiện nay: đường J, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hoài N; con bà Nguyễn Thị Đ; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Hồng N và chưa có con. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Nguyễn Văn H; tên gọi khác: Tý N1; sinh ngày 20 tháng 5 năm 1999; tại: tỉnh Đắk Lắk;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Đường C, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T; Con bà: Đặng Thị N; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác có liên quan đến kháng cáo: Bị hại: Anh Lê Cảnh L1, sinh năm 1991 - Địa chỉ: Thôn 2, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Phạm Minh P, sinh năm 1998 - có mặt.

Địa chỉ: Đường P, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Anh Nguyễn Thành L2, sinh năm 1994 - vắng mặt.

Địa chỉ: Đường N, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

3. Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1994 - vắng mặt

Địa chỉ: Ấp Y, xã K, huyện G, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 07/12/2017, Nguyễn Thành L2 cùng anh Trần Văn K, đi đến quán trà sữa cô K, ở trước cổng số 3, khu B chợ Trung tâm thành phố B, bên lề đường J, phường N, thành phố B để uống nước với chị Trần Thu H và 01 người bạn của K (Không rõ nhân thân, lai lịch). Tại đây, L2 gọi 01 ly sinh tố nhưng quán trà sữa của cô K không có, nên cô K đã nhờ chị Bạch Lê Thu S và anh Lê Cảnh L1, là chủ quán sinh tố bên cạnh làm giúp đưa sang bán cho L2, chị S đồng ý làm 01 ly sinh tố và nói anh Phạm Minh P, là nhân viên của quán bê ly sinh tố qua cho L2 và nói L2 tính tiền luôn, vì hai quán khác nhau dễ bị nhầm lẫn, nghe anh P nói vậy thì L2 bực tức và nói lại “Làm gì mà tính tiền sớm vậy, còn chưa uống mà”, nên anh P đi về lại quán. Khoảng 05 phút sau anh P đi qua lại bàn của L2 yêu cầu tính tiền để dọn quán đi về, thì giữa L2 và anh P xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. L2 lấy tiền ra trả cho anh P. Lúc này, L2 mượn chiếc điện thoại di động của Trần Văn K và sử dụng vào mạng Facebook, nhắn tin cho bạn là Nguyễn Trọng N, nói là “Bạn ơi mình đang bị vây ở quán trà sữa cô K, đường J”, nhận được tin nhắn của L2, N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Vison màu đỏ, biển số 47P1 - 912.98 đến đường C, phường A, thành phố B chở Nguyễn Văn H, N nói với H là đi với mình có chút việc. Sau đó, N điều khiển xe mô tô chở H về phòng trọ của N tại hẻm đường D, phường L, thành phố B, lấy ra 02 cây kiếm tự chế (01 cây kiếm dài khoảng 80cm và 01 cây kiếm dài khoảng 1,2m, cán làm bằng tuýp sắt, lưỡi kiếm rộng khoảng 3cm) đưa cho H và nói là đi đánh nhau, L2 bị người khác đánh ở đường J, thì H đồng ý và cầm 02 cây kiếm ngồi sau N điều khiển xe chở H đến quán trà sữa cô K, đường J, trên đường đi thì Đỗ Ngọc L, gọi điện thoại cho N và hỏi N là “đang ở đâu thì N nói là đang đi xuống quán trà sữa cô K đường J, L2 đang bị đánh ở đó” và N nói với L “đi xuống đó đi”. Lúc này, Nguyễn Minh T, đang điều khiển xe mô tô chở L đi chơi trên đường C, thì L nói cho T biết N gọi điện nói L2 Nhóc bị người khác đánh ở đường J, nên T chở L đi về phòng trọ của mình tại đường hẻm số 83 đường P, thành phố B lấy 02 cây kiếm tự chế gồm: 01 cây kiếm dài 80cm và 01 cây dài 1,2m (cán làm bằng típ sắt rỗng đường kính 03cm, lưỡi rộng 03 cm), đưa cho L cầm và chở L đi đến trước quán trà sữa cô K, thì gặp N và H mỗi người cầm 01 cây kiếm tự chế đang đứng tại đây. L đi lại chỗ N và H đứng, còn T và K đi qua phía bên kia lề đường J đứng nhìn. Lúc này, Nguyễn Thành L2 đang bên trong quán trà sữa cô K nhìn thấy L, H và N, nên đã chạy đến lấy 01 con dao Thái Lan dài khoảng 25 cm của quán trà sữa chạy ra để đánh anh Phạm Minh P, thì chị S nhìn thấy và hô lên là “P ơi chạy đi”, anh Phạm Minh P bỏ chạy, L2 cầm dao đuổi theo anh P về hướng đường J và L, thấy vậy H, L và N cũng cầm kiếm đuổi theo anh P, nhưng không kịp, nên quay lại quán trà sữa cô K, còn L2 vẫn đuổi đánh anh P. Khi H, L và N cầm kiếm đi về lại phía trước quán trà sữa cô K thì nhìn thấy anh Lê Cảnh L1 đi từ phía bên trong quán của mình đi ra, trên tay cầm cây sắt hình tròn rỗng, đường kính 03 cm, dài 70 cm. H nghĩ anh L1 cầm cây ra để tham gia đánh nhau, nên cầm cây kiếm xông vào chém anh L1 một nhát nhưng trúng vào bàn nhựa, N và L cùng xông vào chém anh L1, anh L1 giơ ống sắt lên đỡ, ống sắt bị rơi, anh L1 bỏ chạy qua phía quán trà sữa cô K thì bị vấp ngã, H, N và L cầm cây kiếm chạy đến đánh, chém anh L1 bị thương tích 01vết thương ở vành tai trái, 01 vết thương khuỷ tay trái và 01 vết thương ở mắt cá chân trái, thì được chị Bạch Lê Thu S cùng mọi người vào can ngăn. Lúc này Nguyễn Thành L2, đuổi đánh anh P không được nên quay lại thì thấy anh Lê Cảnh L1 đã bị thương, sau đó N điều khiền xe Mô tô biển số 47P1 – 192.89 chở H, còn T điều khiển xe mô tô (Không rõ biển số) chở L và K chở L2, đi về trên đường đi H lấy 02 cây kiếm tự chế cất dấu vào bụi cây phía bên trái đầu hẻm 95 đường N, phường L, thành phố B, còn T chở L đi về phòng trọ của T tại hẻm 83 P phường C, thành phố B, cất dấu 02 cây kiếm tại đây. Sau khi bị chém gây thương tích, anh L1 được chị S và mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk, đến ngày 12/12/2017 thì ra viện.

Tại bản Kết luận giám định pháp y thương tích số 26, ngày 08/12/2017 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Anh Lê Cảnh L1 bị đa thương, gãy xương mác trái, tỉ lệ thương tích 15%, vật tác động: Cứng, có cạnh.

Tại bản Kết luận giám định bổ sung số 1078/PY-TgT, ngày 19/9/2018 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Anh Lê Cảnh L1 bị:

- Gãy 1/3 dưới xương mác trái 10%. Vật tác động sắc bén;

- Vết thương vành tai phải 03%. Vật tác động sắc bén;

- Vết thương khủy tay trái 02%. Vật tác động sắc bén. Tổng tỷ lệ thương tích là 15%.

Quá trình điều tra anh Lê Cảnh L1 yêu cầu các bị cáo Nguyễn Trọng N, Nguyễn Văn H và Đỗ Ngọc L, phải bồi thường các khoản chi phí điều trị, tiền mất thu nhập, tiền công người chăm sóc, tiền bồi dưỡng sức khỏe, tổng cộng là 24.000.000 đồng. Các bị cáo Nguyễn Văn H, Nguyễn Trọng N và Đỗ Ngọc L, đã bồi thường cho anh Lê Cảnh L1, số tiền 24.000.000 đồng, anh L1 đã nhận đủ số tiền và đã làm đơn bãi nại cho các bị cáo và không yêu cầu gì khác.

Đối với 02 cây kiếm tự chế là hung khí mà các bị cáo Đỗ Ngọc L, Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H sử vào việc phạm tội, sau khi gây án trên đường về Nguyễn Văn H đã cất dấu vào bụi cây phía bên trái đầu hẻm 95 đường N, phường L, thành phố B, còn lại 02 cây kiếm tự chế bị cáo Đỗ Ngọc L, mang về phòng trọ của Nguyễn Minh T, tại hẻm số 83, đường P, phường C, thành phố B, cất giấu. Ngày 19/9/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã truy tìm vật chứng tại các địa điểm trên nhưng không thu được.

Riêng chiếc bàn nhựa màu đỏ kích thước rộng 43,5cm dài 63,5cm, cao 50cm bị Nguyễn Văn H chém trúng làm hư hỏng, không có giá trị sử dụng nên chị S và anh L1 không nhận lại và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường, do vậy Cơ quan điều tra không định giá.

Đối với chiếc điện thoại di động (Không rõ đời máy và số sim thuê bao), là tài sản của bị cáo Nguyễn Trọng N, dùng để gọi cho bị cáo Đỗ Ngọc L đi đánh nhau, sau khi gây thương tích cho anh L1, N đã bán cho một người (Không rõ nhân thân lai lịch), nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HS-ST ngày 14 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Ngọc L, Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc L 03 (ba) năm tù về tội: “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng N 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên bị cáo Đỗ Ngọc L về các tội Trộm cắp tài sản, Tàng trữ trái phép chất ma túy, quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Ngày 19/3/2019 bị cáo Nguyễn Trọng N kháng cáo bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 20/3/2019 bị cáo Nguyễn Văn H kháng cáo bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 25/3/2019 bị cáo Đỗ Ngọc L kháng cáo bản án sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung của bản án sơ thẩm đã được tóm tắt nêu trên.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo của bị cáo Đỗ Ngọc L là không có cơ sở, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là thỏa đáng, sau khi phạm tội, trong thời gian bị cáo được cho tại ngoại, bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Do vậy, đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Ngọc L, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Đỗ Ngọc L.

Xét kháng cáo của hai bị cáo Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản Điều 357 BLTTHS, chấp nhận kháng cáo của hai bị cáo Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H.

Đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng N 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Áp dụng thêm khoản 1 Điều 55, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc L 03 năm tù về tội: “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HSST ngày 14/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và 06 (sáu) tháng tù về tội: “Đánh bạc” tại bản án hình sự sơ thẩm số 307/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của ba bản án là 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt (ngày 06/10/2018), được khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ tù ngày 23/6/2018 đến ngày 02/7/2018.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Ngọc L không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bị cáo Nguyễn Trọng N, Nguyễn Văn H đều cho rằng trong vụ án có nhiều tình tiết chưa được làm rõ liên quan đến Nguyễn Thành L2 và Nguyễn Minh T, các bị cáo phạm tội do một phần lỗi của bị hại anh Lê Cảnh L1, các bị cáo phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng thời gian từ 22 giờ 30 đến 23 giờ ngày 07/12/2017, tại quán trà sữa Cô K, đường J trước cổng số 3, khu B, chợ trung tâm thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, các bị cáo Đỗ Ngọc L, Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H khi đuổi đánh anh P không được quay về vừa thấy anh L1 cầm cây sắt từ trong quán đi ra đã xông ngay vào dùng dao, kiếm tự chế chém anh L1, gây thương tích cho anh L1 15%. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Đỗ Ngọc L, Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H về tội “Cố ý gây thương tích”; theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội.

[2] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm và các bị cáo phạm tội do lỗi của bị hại, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2.1] Đối với Nguyễn Thành L2 là người nhắn tin cho bị cáo Nguyễn Trọng N đi đến quá trà sữa cô K để đánh nhau, nhưng căn cứ lời khai của bị cáo Nguyễn Trọng N, bị cáo Nguyễn Văn H, bị cáo Đỗ Ngọc L, anh Nguyễn Thành L2, những người tham gia tố tụng khác và diễn biến nội dụng vụ án, thì mục đích của L2 là rủ đến đánh anh Phạm Minh P. Sau khi cả nhóm cùng rượt đuổi anh P không được, ba bị cáo L, N, H qua lại chém anh Lê Cảnh L1. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Trọng N, Nguyễn Văn H và Đỗ Ngọc L hoàn toàn độc lập và ngoài ý chí của anh L2. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét vai trò đồng phạm của anh Nguyễn Thành L2 trong vụ án này là phù hợp.

[2.2] Đối với Nguyễn Minh T, mặc dù T là người đưa Đỗ Ngọc L về phòng trọ lấy hung khí. Tuy nhiên, sau khi đưa đến, bị cáo không tham gia đánh nhau, việc các bị cáo sau khi đuổi đánh anh P không được và quay lại gây thương tích cho anh Lê Cảnh L1, anh T không biết. Đồng thời, căn cứ theo lời khai của các bị cáo, bị hại, người làm chứng thì chỉ có ba bị cáo L, N, H là người trực tiếp đánh, chém anh L1. Mặt khác, quá trình điều tra, Nguyễn Minh T đã bỏ đi khỏi địa phương, nên cơ quan điều tra chưa xác minh đối với T, do vậy chưa có đủ cơ sở xử lý đối với T. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tách hành vi của T để điều tra, xử lý sau là phù hợp.

[2.3] Đối với nội dung kháng cáo về tình tiết định khung hình phạt “có tính chất côn đồ”. Các bị cáo cho rằng, các bị cáo phạm tội do bị hại anh Lê Cảnh L1 cầm tuýp sắt ra đánh bị cáo nên các bị cáo đánh lại. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của bị cáo N tại bút lục số 178A: “… sau khi tôi và H, L đuổi đánh anh P không được thì chúng tôi quay lại quán cô K thấy anh L1 cầm một tuýp sắt đi ra chúng tôi tưởng anh L1 đi ra đánh lại chúng tôi nên tôi và H, L xông vào đánh chém anh L1..” , bị cáo Nguyễn Văn H tại bút lục 199: “…Anh P chạy nhanh nên chúng tôi đuổi theo không kịp nên tôi, L, Tý N cầm kiếm quay đi lại quán Cô K. L2 Nhóc tiếp tục đuổi theo anh P nhưng cũng không kịp nên đi quay lại phía sau chúng tôi. Tôi, L và Tý N nhìn thấy một người nam giới ở quán bên cạnh quá cô K cầm 01 đoạn típ sắt dạng ống dài khoản 80cm, nên tôi, L và Tý N sẵn cầm mỗi đứa 01 cây kiếm trên tay xông vào đánh chém người này..” . Như vậy, tại đơn kháng cáo bổ sung, các bị cáo cho rằng anh L1 đánh các bị cáo trước là hoàn toàn mâu thuẫn với lời khai mà chính các bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra trước đó. Căn cứ lời khai của các bị cáo, bị hại, những người làm chứng đủ căn cứ chứng minh các bị cáo và anh L1 từ trước đều không có mâu thuẫn gì nhưng các bị cáo đã vô cớ chém anh L1 gây thương tích. Nên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo với tình tiết “có tính chất côn đồ” là đúng người, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Đỗ Ngọc L, Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Xét mức hình phạt 03 năm 06 tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Trọng N và 03 năm tù đối với các bị cáo Đỗ Ngọc L và Nguyễn Văn H mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra. Bởi lẽ, các bị cáo gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ thương tật 15%, sau khi phạm tội, các bị cáo thành khẩn khai báo, bồi thường toàn bộ chi phí điều trị cho bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm, bị hại tiếp tục xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn H. Tại phiên tòa, các bị cáo đều thừa nhận có chém anh L1 nhiều nhát, nhưng có nhát trúng nhát không nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm chung đối với hậu quả do các bị cáo gây ra. Trong vụ án, vai trò của các bị cáo là như nhau nên mức hình phạt được áp dụng đối với từng bị cáo là tương đồng. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giảm cho các bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng, tính nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đỗ Ngọc L, Nguyễn Trọng N, Nguyễn Văn H. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HS-ST ngày 14 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt đối với các bị cáo Đỗ Ngọc L, Nguyễn Trọng N, Nguyễn Văn H.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng N 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 55, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc L 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án hình sự sơ thẩm số 49/2019/HSST ngày 14/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và 06 (sáu) tháng tù về tội: “Đánh bạc” tại bản án hình sự sơ thẩm số 307/2018/HSST ngày 20/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của ba bản án là 05 (năm) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt (ngày 06/10/2018), được khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ tù ngày 23/6/2018 đến ngày 02/7/2018.

2. Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 172/2019/HS-PT ngày 31/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:172/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về