TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 172/2019/HS-PT NGÀY 04/11/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 04 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm, thụ lý số 146/2019/TLPT-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn D đối với bản án hình sự sơ thẩm số 469/2019/HSST ngày 09/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn D - tên gọi khác: Không; sinh năm 1987 tại TN; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 52, phường HS, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1962 và con bà Đặng Thị P, sinh năm 1965; Bị cáo có vợ Nguyễn Thị T, sinh năm 1988 và có 03 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh tháng 4/2019; Tiền án, tiền sự: Không; Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương (trước đó không bị tạm giữ, tạm giam). Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Trong vụ án này còn có bị cáo Phan Hải T1; 04 người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị, vắng mặt do Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phan Hải T1 là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm, thường xuyên bỏ nhà đi lang thang tìm sự sơ hở để trộm cắp tài sản mang bán cho Nguyễn Văn D. Mặc dù biết đó là tài sản do T1 trộm cắp được mà có nhưng vì ham rẻ nên D vẫn mua. Cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 18/6/2018, Phan Hải T1 điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu đỏ, biển kiểm soát 20H8 – 5063 (là xe của T1) đi đến đoạn ngõ 452 thuộc tổ 14, phường TT, thành phố TN, T1 thấy vườn cây cảnh của nhà anh Dương Đình T2 (sinh năm 1989; trú tại tổ 14, phường TT, thành phố TN) có nhiều loại cây, nhưng không có ai trông coi. Quan sát thấy phía bên ngoài cổng có căng lưới sắt. T1 trèo qua tường vào vườn và nhổ lấy trộm 01 cây Tùng La hán, thế trực chiều cao khoảng 80cm, đường kính gốc 12 cm có 05 tán. T1 đưa cây qua bức tường cổng để rơi xuống đường rồi trèo ra ngoài, mang cây Tùng La hán trên đến bán cho Nguyễn Văn D với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Khi mua cây của T1, D biết rõ cây do T1 trộm cắp mà có nhưng do ham rẻ nên vẫn mua. Quá trình điều tra D đã tự nguyện giao nộp cây Tùng La Hán cho cơ quan điều tra trả bị hại. Còn T1 đã sử dụng hết số tiền trên vào mục đích mua ma túy để sử dụng.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 117/HĐĐGTS ngày 13/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận: 01(một) cây Tùng La Hán, thế trực, cao khoảng 80cm, đường kính gốc 12cm, có 05 tán, có giá trị 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 28/3/2019, Phan Hải T1 điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu đỏ, biển kiểm soát 20H8 – 5063 đi đến đoạn cổng trước cửa nhà bà Trương Thị Kim O (sinh năm 1967 - trú tại tổ 13, phường HS, thành phố TN) thấy có 02 cây hồng SaPa đang trồng trên chậu. T1 dừng xe máy, nhổ 01 cây hồng cổ Sapa gồm 01 gốc có 03 nhánh, chiều cao khoảng 1,5m và mang đến bán cho Nguyễn Văn D. Sau đó T1 tiếp tục quay lại nhà bà O trộm cắp 01 gốc hồng leo Hải Phòng có 05 nhánh, chiều cao khoảng 04m. Sau khi nhổ xong, T1 lại mang đến bán cho Nguyễn Văn D. T1 bán hai cây hồng trên cho D với giá 300.000đ. Khi mua hai cây hồng trên D cũng biết rõ là tài sản T1 trộm cắp nhưng vì ham rẻ vẫn mua. Quá trình điều tra D đã tự nguyện giao nộp 02 cây hồng trên cho cơ quan điều tra để trả bị hại.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 118/HĐĐGTS ngày 14/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận: 01(một) cây hồng leo Hải Phòng gồm 01gốc có 05 thân dài cao khoảng 04m giá 2.000.000đ và 01 (một) cây hồng cổ Sapa 01 gốc gồm 03 nhánh cao khoảng 1,5m có giá trị là 2.000.000đ. Tổng trị giá tài sản là 4.000.000đ (Bốn triệu đồng).
Tại cơ quan điều tra, Phan Hải T1 và Nguyễn Văn D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với đơn trình báo của bị hại, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác thu thập được trong quá trình điều tra.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 469/2019/HSST ngày 09/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành bản án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh, hình phạt đối với bị cáo Phan Hải T1, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Ngày 16/9/2019, bị cáo Nguyễn Văn D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo rút nội dung kháng cáo xin hưởng án treo, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và khai nhận về diễn biến hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã quy kết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên mức án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, trong vụ án này bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vì vậy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn D, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 469/HSST ngày 09/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 6 đến 9 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn D gửi trong thời hạn và đúng theo thủ tục quy định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự, thủ tục phúc thẩm.
[2]. Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, lời khai của bị cáo Phan Hải T1, của bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Do không có tiền tiêu sài và mua ma túy để sử dụng nên trong khoảng thời gian từ ngày 18/6/2018 đến 18/4/2019 Phan Hải T1 đã thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Thái Nguyên đem bán để tiêu sài cá nhân. Còn Nguyễn Văn D thực hiện 02 vụ Tiêu thụ tài sản do Phan Hải T1 phạm tội mà có. Cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 18/6/2018 tại vườn cây của anh Dương Đình T2 thuộc tổ 14, phường TT, thành phố TN, Phan Hải T1 đã lấy trộm 01 cây Tùng La Hán, thế trực chiều cao khoảng 80cm, đường kính gốc 12 cm có 05 tán theo kết luận định giá tài sản có giá trị 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) mang bán cho Nguyễn Văn D với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 28/3/2019, Phan Hải T1 lấy trộm của bà Trương Thị Kim O (sinh năm 1967 - trú tại tổ 13, phường HS, thành phố TN) 01 cây hồng cổ Sapa gồm 01 gốc có 03 nhánh, chiều cao khoảng 1,5m và 01 gốc hồng leo Hải Phòng có 05 nhánh, chiều cao khoảng 04m có tổng giá trị 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) mang đến bán cho Nguyễn Văn D với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
Do đó Nguyễn Văn D bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, tiếp tay cho tội phạm. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và có nhân thân tốt. Trong vụ án này bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo là thiếu sót, mặc dù bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo được hưởng 04 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.
Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.
[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
[5]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 469/2019/HSST ngày 09/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, giảm một phần hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn D.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”;
Căn cứ khoản 1 Điều 323; Điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành bản án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn D không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 469/2019/HSST ngày 09/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 172/2019/HS-PT ngày 04/11/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 172/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về