Bản án 17/2021/ST-HNGĐ ngày 29/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 17/2021/ST-HNGĐ NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 127/2020/TLST - HNGĐ ngày 20/10/2020 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2020/QĐXX – ST ngày 21 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thảo A, sinh năm 1993 – Có mặt

Bị đơn: Anh Bùi Viết H, sinh năm 1987 - Vắng mặt.

Cả nguyên đơn và bị đơn đều có địa chỉ: Thôn TT, xã CK, huyện CC, tỉnh NA.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, lời trình bày tại Tòa án và tại phiên tòa hôm nay chị Trần Thị Thảo A trình bày: Chị với anh Bùi Viết H kết hôn với nhau vào ngày 18/02/2011 tại Ủy ban nhân dân xã CK, huyện CC, tỉnh NA trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng chị chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì xẩy ra mâu thuẫn, nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tôn trọng nhau, thường xuyên cãi vã. Việc vợ, chồng mâu thuẫn đã được hai bên nội, ngoại cũng như chính quyền địa phương khuyên nhủ, hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Hiện nay chị và anh H đang sống ly thân, chị thấy tình cảm vợ, chồng thực sự không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh Bùi Viết H.

Về con chung: Chị và anh H có ba người con chung là Bùi Ánh Tr, sinh ngày 29/12/2010, Bùi Ánh Ng, sinh ngày 12/6/2014 và Bùi Viết D, sinh ngày 21/01/2020. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cả 03 người con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Hiện nay chị và anh Bùi Viết H không nợ một tổ chức hoặc cá nhân nào.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm anh Bùi Viết H vắng mặt. Mặc dù đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ, nhiều lần nhưng anh H không có ý kiến gì.

Ý kiến của cháu Bùi Ánh Tr được thể hiện tại biên bản lấy lời khai ngày 19/11/2020. Nguyện vọng của cháu sau khi bố mẹ ly hôn là muốn sống với mẹ là Trần Thị Thảo A.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật.

Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông về việc giải quyết vụ án: Áp dụng khoản 1 điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58; các Điều 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giao con chung cho chị Trần Thị Thảo A nuôi dưỡng, tạm hoãn phần cấp dưỡng nuôi con cho anh H, chị Trần Thị Thảo A phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, bị đơn hiện cư trú tại huyện Con Cuông nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa lần thứ nhất ngày 04/01/2021 bị đơn anh Bùi Viết H đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử đã ra Quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã niêm yết Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ để anh H biết và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhưng anh H vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh H là đúng với quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Cuộc hôn nhân giữa chị Trần Thị Thảo A và anh Bùi Viết H có đăng ký kết hôn tại UBND xã CK, huyện CC, tỉnh NA trên cơ sở tự nguyện, là hôn nhân hợp pháp, quá trình chung sống do chị A và anh H không biết yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng sống ly thân đã lâu. Tại phiên tòa anh H vắng mặt. Tuy nhiên qua xác minh tại địa phương cho thấy vợ chồng chị A và anh H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và hiện nay đã ly thân. Xét tình cảm vợ chồng thật sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Thảo A là có căn cứ.

Về con chung: Chị Trần Thị Thảo A và anh Bùi Viết H có ba người con chung là Bùi Ánh Tr, sinh ngày 29/12/2010, Bùi Ánh Ng, sinh ngày 12/6/2014 và Bùi Viết D, sinh ngày 21/01/2020. Tại biên bản ghi lời khai ngày 19/11/2020 cháu Bùi Ánh Tr có nguyện vọng nếu bố mẹ ly hôn thì cháu muốn được ở với mẹ. Xét nguyện vọng của cháu Ánh Tr là hợp lý vì tại phiên tòa anh H vắng mặt, hơn nữa theo chị A anh H thường xuyên đi làm ăn xa. Để đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho các cháu. Hội đồng xét xử thấy rằng cần giao các cháu Ánh Tr, Ánh Ngọc và cháu Viết Dũng cho chị Trần Thị Thảo A trực tiếp nuôi dưỡng là hợp lý.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị Thảo A không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

Về tài sản chung: Chị Trần Thị Thảo A không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét. Nếu sau này anh Bùi Viết H có yêu cầu thì Tòa án sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

Về án phí: Chị Trần Thị Thảo A phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: khoản 1 điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 207; 227; 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Trần Thị Thảo A ly hôn anh Bùi Viết H.

Về con chung: Giao cháu Bùi Ánh Tr, sinh ngày 29/12/2010, Bùi Ánh Ng, sinh ngày 12/6/2014 và Bùi Viết D, sinh ngày 21/01/2020 cho chị Trần Thị Thảo A trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ánh Tr, cháu Ánh Ngọc và cháu Viết Dũng đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Bùi Viết H. Anh Bùi Viết H có quyền thăm non, chăm sóc con chung không ai được cản trở vì lợi ích mọi mặt của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi cấp dưỡng nuôi con hoặc người trực tiếp nuôi con.

Về án phí: Áp dụng điều 147 BLTTDS; Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chị Trần Thị Thảo Ánh phải chịu 300.000đ án phí ly hôn, được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp 300.000 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0002297 ngày 20/10/2020. Chị A đã nộp đủ án phí ly hôn.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/ST-HNGĐ ngày 29/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:17/2021/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về