Bản án 17/2021/HSST ngày 19/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 17/2021/HSST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 188 /2020/HSST ngày 08 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 211/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2021/HSST-QĐ ngày 13/01/2021 đối với bị cáo:

Trần Thanh H; sinh ngày: 16/11/1999, tại: Bình Thuận; trú tại: Tổ 4, khu phố B, thị trấn V, huyện Đ, tỉnh B; chỗ ở: Không nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc S, sinh năm 1969 và bà Trần Thị D, sinh năm 1971; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/08/2020; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1/ Anh Nguyễn Hoài B, sinh năm: 1995; trú tại: 67/8/20 đường N, phường T, quận T, Thành phố H (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2/ Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm: 1994; trú tại: 56 đường L, phường P, quận T, Thành phố H (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Mai Văn P, sinh năm: 1980, trú tại: 504 đường T, Phường M, quận T, Thành phố H (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thanh H và Võ Ngọc K là bạn quen nhau từ trước. Ngày 13/8/2020 H đến nhà trọ của K tại số 67/8/20 đường N, phường T, quận T chơi thì biết được T2 ở cùng với Võ Ngọc K, Nguyễn Hoài B, Trần Minh A, Nguyễn Ngọc T, và D (chưa rõ lai lịch). Do nảy sinh ý định trộm cắp tài sản tại phòng trọ này nên khoảng 19 giờ, ngày 15/8/2020, H điện thoại cho K để xin ngủ nhờ nhằm tìm cơ hội để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 13 giờ ngày 16/8/2020, H thức dậy không thấy ai và phát hiện trong phòng có 03 xe gắn máy khóa cổ dựng ở gần cửa ra vào, đầu xe hướng vào trong nên H lục tìm thì thấy chìa khóa xe gắn máy biển số 60P1 - 2795 của anh Nguyễn Hoài B để trên kệ gỗ sát tường. Lúc này, H lấy chìa khóa mở cổ xe gắn máy biển số 60P1 - 2795 rồi dẫn ra ngoài, H tiếp tục lên phòng ngủ tại lầu 01 lấy trộm 01 máy tính Laptop hiệu Toshiba màu đen để trên kệ tường và 01 máy tính bảng Ipad Air 2 màu trắng để trên nệm của anh Nguyễn Ngọc T rồi điều khiển xe gắn máy trên mang theo máy tính và Ipad vừa trộm được đến phòng trọ của Hoàng Tuấn C (bạn quen biết ngoài xã hội) tại số 317/5J đường T, ấp T, xã T, huyện H. H để xe tại bãi giữ xe của dãy phòng trọ rồi lên phòng 12 gặp C và nói cho C biết vừa trộm được xe gắn máy biển số 60P1- 2795, máy tính và Ipad. C không nói gì và đồng ý cho H ngủ lại qua đêm. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, anh K, anh B và anh A đi làm về kiểm tra phát hiện bị mất tài sản nên gọi điện thoại hỏi H thì H thừa nhận lấy trộm số tài sản trên.

Ngày 17/8/2020, H bán xe gắn máy biển số 60P1- 2795 cho C với giá 3.000.000 đồng, H trừ nợ số tiền 1.400.000 đồng cho C (do H mượn C trước đó) còn lại số tiền 1.600.000 đồng thì C chưa trả cho H.

Đến ngày 19/8/2020, H mang máy tính xách tay hiệu Toshiba màu đen (trộm được của anh B) đến cửa hàng điện thoại Minh P địa chỉ 504 Trường Chinh, phường 13, quận Tân Bình gặp anh Mai Văn P (là chủ cửa hàng) để sửa chữa. Sau đó, H bị anh K, anh B và anh An phát hiện đưa về trụ sở Công an phường T làm việc. Tiến hành đưa H đi chỉ điểm thu hồi được máy tính xách tay hiệu Toshiba màu đen, Serial No 1A262697Q. Cơ quan CSĐT Công an quận Tân Phú đã cho anh P nhận dạng H và anh P nhận dạng được H là người mang máy tính xách tay trên đến cửa hàng của mình để sửa chữa vào ngày 19/8/2020.

Đối với máy tính bảng Ipad Air 2, H khai nhận sau khi lấy trộm được thì đem về nhà trọ của C để cả hai cùng sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Phú tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Tuấn C nhưng không thu giữ được máy tính bảng trên.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 1894/KL-HDĐGTS-TTHS ngày 05/10/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Phú, 01 xe gắn máy Honda loại Wave trị giá 7.000.000 đồng, 01 máy tính bảng Ipad Air 2 màu trắng không rõ Model không có cơ sở xác định giá tài sản, 01 máy tính xách tay Toshiba màu đen Serial No 1A262697Q không rõ Model không có cơ sở định giá.

Vật chứng:

- 01 xe máy Wave, màu đen xám, biển số: 60P1-2795, số khung: RLHHC090X7Y925698, số máy: HC09E6749559. Qua xác minh, xe trên do ông Mai Thanh H1 (thường trú: Tổ M, ấp H, xã P, huyện T, tỉnh Đ đứng tên sở hữu. Ngày 10/9/2019 đã bán lại cho anh Nguyễn Hoài B nhưng chưa làm thủ tục sang tên.

- 01 máy tính xách tay hiệu Toshiba màu đen, Serial No 1A262697Q là tài sản H lấy trộm của anh Nguyễn Ngọc T.

- 01 điện thoại di động hiệu Coolpad F110, số Emei: 863310040450826.

Là tài sản cá nhân của Trần Thanh H.

- 01 xe gắn máy hiệu Vision biển số 84K-060.91, số khung không xác định, số máy không xác định, là xe Hoàng Tuấn C cho H mượn để sử dụng. Giám định số khung, số máy trên cho kết quả số khung, số máy bị mài mất số, không xác định được số nguyên thủy. Qua xác minh biển số xe 84K1-060.91 là xe hiệu Hoda Wave Alpha, có số khung RLHHC1208BY404326, số máy HC12E3204050 do chị Đoàn Phương Thúy Ngọc (thường trú: Ấp Bình Hội, xã Huyền Hội, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh) đứng tên chủ sở hữu. Qua xác minh, chị Ngọc không có ở địa phương. Làm việc với bà Huỳnh Thị Ánh (mẹ ruột của chị Ngọc) cho biết, hiện xe gắn máy trên bà Ngọc đang quản lý, sử dụng, không bị mất biển số xe nên không có yêu cầu gì.

- 02 đĩa DVD ghi lại diễn biến sự việc H lấy trộm tài sản.

Tại bản cáo trạng số 02/CT-VKSQTP ngày 07 tháng 12 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố bị cáo Trần Thanh H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Thanh H từ 09 tháng đến 01 năm 03 tháng tù.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý phần trách nhiệm dân sự và vật chứng.

- Bị cáo Trần Thanh H đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như trên, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định:

Vào khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 15/8/2020, Trần Thanh H điện thoại cho anh Võ Ngọc K để xin ngủ nhờ nhằm tìm cơ hội trộm cắp tài sản thì được anh K đồng ý. Đến khoảng 13 giờ 00 phút ngày 16/8/2020, H thức dậy không thấy ai và phát hiện trong phòng có 03 xe gắn máy khóa cổ dựng ở gần cửa ra vào nên H lục tìm thì thấy chìa khóa xe gắn máy biển số 60P1 – 2795 của anh Nguyễn Hoài B để trên kệ gỗ sát tường. H mở khóa xe gắn máy biển số 60P1 – 2795 dắt ra ngoài, H tiếp tục lên phòng ngủ tại lầu 1 lấy trộm 01 máy tính xách tay hiệu Toshiba màu đen và 01 Ipad Air 2 màu trắng của anh Nguyễn Ngọc T để trên nệm rồi điều khiển xe gắn máy về huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh bán xe cho đối tượng tên C. Sau đó, H bị anh K, anh B phát hiện đưa về trụ sở công an làm việc.

Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản” như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo lợi dụng sự sơ hở của người bị hại, lén lút chiếm đoạt tài sản có giá trị là 7.000.000 đồng, nên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú truy tố bị cáo Trần Thanh H theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt của anh Nguyễn Hoài B là chiếc xe gắn máy mang biển số 60P1 – 2795, anh B yêu cầu nhận lại xe, ngoài ra anh không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Anh Nguyễn Ngọc T yêu cầu nhận lại máy tính xách tay hiệu Toshiba, riêng đối với máy tính bảng Ipad Air 2, anh T yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 xe gắn máy dạng Wave, màu đen xám, mang biển số 60P1 – 2795, số khung RLHHC090X7Y925698, số máy HC09E – 6749559. Qua xác minh do ông Mai Thanh S đứng tên chủ sở hữu, đã bán lại cho anh Nguyễn Hoài B nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Xét đây là tài sản hợp pháp của anh B nên trả lại cho anh B theo qui định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 máy tính xách tay hiệu Toshiba màu đen, Serial No 1A262697Q, là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Ngọc T nên trả lại cho anh T theo qui định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 điện thoại di động hiệu Coolpad F110, số Imel 863310040450826, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo qui định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 xe gắn máy hiệu Vision màu trắng, biển số 84K1 – 06091, số khung; số mày bị mài mòn không xác định, đã qua sử dụng, đây là tài sản không rõ nguồn gốc, chủ sở hữu nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo qui định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 02 đĩa DVD ghi lại diễn biến việc H lấy trộm tài sản, đây là vật chứng của vụ án nên tiếp tục lưu hồ sơ.

Đối với Hoàng Tuấn C, do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên có cơ sở xử lý, khi nào điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với anh Mai Văn P là người nhận sửa máy tính xách tay Toshiba cho H, anh P không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên không có xử lý.

[7] Án phí: Bị cáo Trần Thanh H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Thanh H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

[2] Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23 tháng 8 năm 2020

[3] Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Trả cho anh Nguyễn Hoài B 01 (một) xe gắn máy dạng Wave, màu đen xám, mang biển số 60P1 – 2795, số khung RLHHC090X7Y925698, số máy HC09E – 6749559.

- Trả cho anh Nguyễn Ngọc T 01 (một) máy tính xách tay hiệu Toshiba màu đen, Serial No 1A262697Q.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Coolpad F110, số Imel 863310040450826.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) xe gắn máy hiệu Vision màu trắng, biển số 84K1 – 06091, số khung; số máy bị mài mòn không xác định, đã qua sử dụng.

(Vật chứng hiện đang nhập kho theo PH nhập kho vật chứng số 210/PNK ngày 31/8/2020 của Công an quận Tân Phú) [5] Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Trần Thanh H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/HSST ngày 19/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:17/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về