TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 17/2021/HS-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02 tháng 03 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 267/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 04/2021/HSST-QĐ ngày 02/02/2021 đối với các bị cáo:
1. Trần Chí N, sinh năm 1995 tại Hậu Giang; thường trú: ấp L, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hoài B, sinh năm 1977 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1976; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 18/9/2020 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.
2. Đặng Văn T, sinh năm 1999 tại Sóc Trăng; thường trú: ấp M, xã T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th1, sinh năm 1974 (đã chết) và bà Đặng Thị U, sinh năm 1976; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 18/9/2020 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.
- Người làm chứng: Ông Lê Văn Th2 và ông Trần Gia M; đều có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Chí N và Đặng Văn T là bạn bè và đều là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 20 giờ ngày 18/9/2020, T điều khiển xe mô tô biển số 83S1 - 6678 chở N đến một quán cà phê thuộc khu phố K, phường Kh, thị xã T. Tại đây, N nảy sinh ý định mua ma túy để sử dụng và bảo mỗi người góp 300.000 đồng để mua ma tuý sử dụng. T gọi điện thoại cho một người tên S hỏi mua 600.000 đồng ma túy. S hẹn T ở ngã tư M thuộc phường T, thị xã T. Sau đó, T chở N đến ngã tư M. Khi đi qua ngã tư cây xăng H thuộc phường Th, thị xã T, N bảo T dừng lại để N ăn phở, còn T tiếp tục đi mua ma tuý. Khi đến nơi, S đưa cho T bao thuốc lá hiệu H bên trong có 02 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng, T trả cho S 600.000 đồng rồi quay lại chở N tìm chỗ sử dụng ma tuý. Khi đi qua khu phố Ph, phường Th thì lực lượng tuần tra Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Bình Dương phát hiện T và N có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra và phát hiện 02 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng. Lực lượng tuần tra tiến hành niêm phong 02 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng đồng thời đưa T và N về trụ sở Công an phường Th, thị xã T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 02 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, xe mô tô biển số 83S1 – 6678, vỏ bao thuốc lá hiệu H và điện thoại di động hiệu B.
Công an phường phường Th lập hồ sơ ban đầu và bàn giao T và N cùng hồ sơ vụ việc, vật chứng cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.
Tại Bản kết luận giám định số 598/MT-PC09 ngày 22/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: 02 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng thu giữ của Trần Chí N và Đặng Văn T là chất ma túy loại Methamphetamine, có trọng lượng 0,6328 gam.
Xe mô tô biển số 83S1- 6678 không có giấy chứng nhận đăng ký chủ sở hữu do T mua của một người đàn ông với số tiền là 2.000.000 đồng. Qua tra cứu, không tìm được dữ liệu và không tìm thấy dữ liệu trong xe vật chứng.
Bản Cáo trạng số 05/CT-VKS.TU ngày 22/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố hai bị cáo Trần Chí N và Đặng Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:
- Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Chí N từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Xử phạt bị cáo Đặng Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu hủy 0,5975 gam ma túy còn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu H; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô biển số 83S1 – 6678 và 01 điện thoại di động hiệu B.
Tại phiên tòa, hai bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, hai bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thu tuc tố tung: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về sự vắng mặt của người làm chứng: Những người làm chứng vắng mặt nhưng đã có đơn xin vắng mặt. Quá trình điều tra lời khai của họ không mâu thuẫn với lời khai của hai bị cáo và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người làm chứng. Xét thấy, việc vắng mặt của người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử, căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người làm chứng.
[3] Tại phiên tòa, hai bị cáo Trần Chí N, Đặng Văn T đều khai nhận mình nghiện ma túy, loại ma túy thường sử dụng là Methamphetamine. Ngày 18/9/2020, tại khu phố Ph, phường Th, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Trần Chí N và Đặng Văn T đang đi tìm chỗ sử dụng ma tuý thì bị bắt quả tang với khối lượng 0,6328gam ma túy loại Methamphetamine. Lời khai của hai bị cáo phù hợp với lời khai tại Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang do Công an phường Th lập lúc 02 giờ 10 phút ngày 18/9/2020, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác trong hồ sơ. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Hành vi của hai bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước trong quản lý, sử dụng chất ma túy. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nhưng vì muốn có ma túy sử dụng, thỏa mãn cơn nghiện nên đã cố ý phạm tội. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng đối với các bị cáo và cách ly khỏi xã hội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[5] Xét về vai trò, hai bị cáo hùn số tiền bằng nhau để mua ma tuý, bị cáo N đề xuất mua ma tuý sử dụng nhưng bị cáo T trực tiếp đi mua và sử dụng xe của mình làm phương tiện. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng vai trò của hai bị cáo là ngang nhau.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hai bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[8] Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo Đặng Văn T là phù hợp, còn đối với bị cáo Trần Chí N là cao nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[9] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với số ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng sau giám định là 0,5975 gam và vỏ bao thuốc lá hiệu H cần tịch thu tiêu hủy. Đối với xe mô tô biển số 83S1 – 6678 và điện thoại di động hiệu B là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.
[10] Án phí sơ thẩm: Hai bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố hai bị cáo Trần Chí N và Đặng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Về hình phạt:
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Trần Chí N 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/9/2020.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/9/2020.
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 0,5975 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá hiệu H đựng trong bì thư niêm phong, ký hiệu 598/PC09 có dấu đỏ niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Dương.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô kiểu dáng Wave gắn biển số 83S1 – 6678 màu xanh – đen – xám, số máy 52FMH008599, số khung M7XG08599 và 01 điện thoại di động hiệu B màu đỏ - đen, số imei1:980028003662630.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương).
3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc mỗi bị cáo Trần Chí N và Đặng Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 17/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 17/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về