TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 17/2021/HS-PT NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 23 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2021/TLPT-HS ngày 27 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Phan Trường A và Nguyễn Văn N, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 163/2020/HS-ST ngày 17 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Phan Trường A, sinh năm 1989 tại: Phường V, TP. H, tỉnh Hải Dương; Nơi Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số nhà 1 ngõ 8 phố C, khu 2, phường V, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: công nhân; Con ông Phan Ngọc M, sinh năm 1954 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1955. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ là Ngô Thị M, sinh năm 1991, có 02 con lớn sinh 2013, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/5/2020 đến ngày 08/5/2020 được thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân thành phố H.
(Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt) 2. Nguyễn Văn N, sinh năm 1989 tại: Xã T; Nơi Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: thôn C, xã T, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/1; Nghề nghiệp: công nhân; Con ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị Ô, sinh năm 1957; nghề nghiệp: làm ruộng. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; Có vợ là Lê Thị H, sinh năm 1993; có 01 con sinh tháng 6/2020; Tiền án: Bản án số 05/HSST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân TP. H, tỉnh Hải Dương xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/5/2020, chuyển tạm giam từ ngày 08/5/2020 đến nay tại Trại tạm giam, Công an tỉnh Hải Dương. (Có mặt) Ngoài ra còn 15 bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị, vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phan Trường A, Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn H, Nguyễn Khắc Đ, Nguyễn Văn N, Trần Thanh K, Nguyễn Văn M, Vũ Văn D, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đức Q, Trần Văn L, Đoàn Văn G, Nguyễn Văn D, Phạm Văn V, Bùi Hữu X, Ngô Đức S, Vũ Thành C đều là công nhân và lái xe của Công ty cổ phần xây dựng và thương mại PN ở phường C, TP. H, tỉnh Hải Dương. Vào khoảng 11h30phút ngày 05/5/2020, sau khi ăn trưa xong Trường A, P, H, Đ, N, K, M, Vũ D, T, Q, L, G, Nguyễn D, V, X, S, C về phòng nghỉ của công nhân để nghỉ. Lúc này trong nhóm có người rủ đánh bạc (không xác định được người cụ thể) nên Trường A sang phòng chờ lấy 01 chén sứ, 01 đĩa sứ và 04 quân vị có sẵn rồi quay lại phòng ngủ cùng P, H, Đ, N, K, M, Vũ D, T, Q, L, G, Nguyễn D, V, X, S tham gia đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền. Quá trình đánh bạc do quân vị đã cũ có người trong nhóm bảo thay quân vị khác nên X đã bảo C cắt 04 quân vị mới để thay 04 quân vị cũ. C dùng kéo và vỏ bao thuốc lá vinataba cắt thành 04 quân vị hình tròn, 02 mặt trắng - vàng rồi đưa cho Trường A xóc cái để mọi người tiếp tục đặt cửa đánh bạc. Sau khi cắt quân vị xong C đi ngủ, không tham gia đánh bạc. Hình thức đánh bạc bằng là xóc đĩa cụ thể: Người cầm cái cho 04 quân vị bài vào đĩa sứ rồi úp chén lên sau đó xóc mấy cái. Những người tham gia đánh bạc đặt tiền cho mỗi lần chơi thấp nhất là 50.000đồng, không giới hạn mức cao nhất vào cửa chẵn hoặc cửa lẻ. Người cầm cái mở bát ra nếu 2 hoặc 4 quân vị cùng màu (vàng hoặc trắng) là chẵn thì người đặt cửa chẵn thắng. Nếu 1 hoặc 3 quân vị bài cùng màu (vàng hoặc trắng) là lẻ thì người đặt cửa lẻ thắng. Người thắng được gấp đối số tiền đã đặt, người thua mất số tiền đã đặt. Người cầm cái trả tiền cho người thắng nếu dư được hưởng, nếu thiếu phải tự bù. Quá trình đánh bạc Trường A là người cầm cái điều hành mọi người cùng chơi. Quá trình các bị cáo đánh bạc ở phòng ngủ thì còn có các anh Phạm Quang K ở xã T, huyện L, tỉnh Hải Dương; anh Nguyễn Như L ở xã L, huyện V, tỉnh Hưng Yên; anh Nguyễn Văn Ư ở xã Đ, huyện K, tỉnh Hải Dương; anh Nguyễn Đình N ở xã Q, huyện K, tỉnh Hải Dương; anh Nguyễn Đình T ở xã B, Đ, tỉnh Quảng Ninh, anh Nguyễn V, anh Đặng Văn Đ đều ở xã T, huyện S, tỉnh Hải Dương; anh Quách Đình D ở xã X, huyện T, tỉnh Hải Dương; anh Ngô Văn H ở xã Thanh A, huyện T, tỉnh Hải Dương; anh Nguyễn Văn P ở xã P, huyện N, tỉnh Hải Dương; anh Nguyễn Văn I ở xã P, huyện S, tỉnh Hải Dương; anh Bùi Văn S ở khu 4, P. C, TP. H; anh Lưu Mạnh C ở xã A, huyện T, tỉnh Hải Dương; anh Vũ Văn T ở khu 2, P. N, TP. H; anh Hoàng Văn N ở thôn C, xã T, TP. H đang nằm nghỉ trưa và đều không tham gia đánh bạc. Đến khoảng 12h15phút cùng ngày khi Trường A, P, H, Đ, N, K, M, Vũ D, T, Q, L, G, Nguyễn D, V, X, S đang đánh bạc thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương phát hiện bắt quả tang, thu giữ dụng cụ dùng để đánh bạc gồm 01 chén sứ màu trắng đường kính khoảng 6cm, 01 đĩa sứ màu trắng đường kính khoảng 9,8cm; 04 quân vị hình tròn được cắt từ vỏ bao thuốc lá Vinataba có đường kính khoảng 1,5cm, một mặt màu trắng, một mặt màu vàng; 01 kéo cắt giấy màu vàng và số tiền 20.850.000 đồng tại chiếu bạc. Các bị cáo tự nguyện giao nộp số tiền sử dụng vào việc đánh bạc cụ thể như sau: Phan Trường A giao nộp 2.800.000 đồng; Nguyễn Văn H giao nộp 2.000.000đồng; Nguyễn Khắc Đ giao nộp 1.700.000 đồng; Trần Thanh K giao nộp 1.000.000 đồng; Nguyễn Văn M giao nộp 500.000 đồng; Vũ Văn D giao nộp 1.800.000 đồng; Nguyễn Văn T giao nộp 4.100.000 đồng; Trần Văn L giao nộp 5.600.000 đồng; Nguyễn Văn D giao nộp 500.000 đồng; Phạm Văn V giao nộp 100.000 đồng; Phạm Hữu X giao nộp 200.000 đồng.
Quá trình điều tra xác định số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc như sau: Trường A sử dụng 2.800.000đ khi bị bắt có 2.800.000đ; P sử dụng 700.000đ, G sử dụng 150.000đ, Q sử dụng 300.000đ; S sử dụng 100.000đ, N sử dụng 50.000đ khi bị bắt đều đã thua hết; H sử dụng 2.000.000đ khi bị bắt có 2.000.000đ; Đ sử dụng 8.000.000đ khi bị bắt có 1.700.000đ; K sử dụng 1.200.000đ khi bị bắt có 1.000.000đ; M sử dụng 750.000đ khi bắt có 500.000đ; Vũ D sử dụng 1.650.000đ khi bắt có 1.800.000đ; T sử dụng 6.200.000đ khi bị bắt có 4.100.000đ; L sử dụng 5.000.000đ khi bị bắt có 5.600.000đ; Nguyễn D sử dụng 600.000đ khi bị bắt có 500.000đ; V sử dụng 500.000đ (là tiền vay của Trường A) khi bị bắt có 100.000đ; X sử dụng 600.000đ khi bị bắt có 200.000đ.
Tại bản án sơ thẩm số 163/2020/HS-ST ngày 17 tháng 12 năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố H tuyên bố Phan Trường A và Nguyễn Văn N phạm tội Đánh bạc. Căn cứ khoản 1 Điều 321; khoản 2 Điều 35; Điều 17; Điều 58; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt Phan Trường A 26 tháng tù. Căn cứ khoản 1 Điều 321; khoản 2 Điều 35; Điều 17; Điều 58; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Văn N 15 tháng tù, tổng hợp hình phạt 12 tháng tù tại bản án số 05/HSST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương; buộc bị cáo N phải chấp hành chung của 02 bản án là 27 tháng tù. Ngoài ra cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với 15 bị cáo khác; hình phạt bổ sung; xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 21 tháng 12 năm 2020, bị cáo Phan Trường A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo; bị cáo Nguyễn Văn N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Bị cáo Trường A vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị cáo N có mặt, trình bày giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương: Sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, xác định cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phan Trường A và Nguyễn Văn N về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật. Cấp sơ thẩm đã áp dụng các quy định của pháp luật, xử phạt Trường A 26 tháng tù, N 15 tháng tù. Xét kháng cáo của hai bị cáo thì thấy: Bị cáo Trường A phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cần áp dụng thêm cho Trường A tình tiết giảm nhẹ tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Trường A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo nhưng thấy rằng bị cáo Trường A có vai trò đầu trong vụ án, tính chất hành vi nguy hiểm hơn các bị cáo khác, mức hình phạt 26 tháng tù là đã phù hợp nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo N có tình tiết mới là đã nộp tiền phạt theo quyết định sơ thẩm nhưng thấy rằng bị cáo N có tiền án, thuộc trường hợp tái phạm, mức hình phạt 15 tháng tù là đã phù hợp nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLHS, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các bị cáp phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn quy định tại Điều 333 BLTTHS nên hợp lệ và được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung:
[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cấp sơ thẩm, trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, của người làm chứng cùng những chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Trong khoang thơi gian tư 11 giờ 30 phút đên 12 giờ 15 phút ngày 05/5/2020 tại phòng ngủ công nhân của Công ty Cổ phần xây dựng và thương mại PN ở phường C, thành phố H, tỉnh Hải Dương, Phan Trường A, Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn H, Nguyễn Khắc Đ, Nguyễn Văn N, Trần Thanh K, Nguyễn Văn M, Vũ Văn D, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đức Q, Trần Văn L, Đoàn Văn G, Nguyễn Văn D, Phạm Văn V, Bùi Hữu X, Ngô Đức S, Vũ Thành C đanh bac trái phép dươi hinh thưc đanh xoc đia đươc thua băng tiên thì bi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương phát hiện bắt quả tang , thu giữ dụng cụ đánh bạc và số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 41.150.000đ. Do đó Tòa án nhân dân thành phố H xét xử Phan Trường A và Nguyễn Văn N về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật. Về tội danh các bị cáo không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.
[2] Xét kháng của các bị cáo thì thấy:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa hai bị cáo cơ bản thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; bị cáo N có bố đẻ được tặng thưởng huân huy chương nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo N đã bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo bản án số 05 ngày 16/01/2020, đến ngày 05/5/2020 tiếp tục phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng Tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Cấp sơ thẩm đã đánh giá vai trò, áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nêu trên, xử phạt Trường A 26 tháng tù và N 15 tháng tù.
Thấy rằng bị cáo Trường A có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, đây là lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo là thiếu, cần áp dụng thêm tình tiết này. Tại cấp phúc thẩm bị cáo Trường A đã tự nguyện nộp trước tiền phạt bổ sung, án phí sơ thẩm và ủng hộ công tác phòng chống Covid-19 tại địa phương, thể hiện bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật và trách nhiệm cộng đồng nên cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Mặc dù tại cấp phúc thẩm bị cáo Trường A có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng thấy rằng bị cáo là người chủ động chuẩn bị công cụ, cho các bị cáo khác vay tiền để đánh bạc và cầm cái từ đầu đến cuối nên bị cáo giữ vai trò thứ nhất trong vụ án, hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn các bị cáo khác. Mức hình phạt 26 tháng tù là đã phù hợp nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trường A.
Đối với bị cáo N là người sử dụng số tiền ít nhất để đánh bạc. Tại cấp phúc thẩm bị cáo đã tác động gia đình nộp trước tiền phạt và án phí sơ thẩm, là tình tiết giảm nhẹ mới. Tuy nhiên bị cáo N có tiền án nhưng không lấy đó làm bài học, trong thời gian thử thách lại tiếp tục phạm tội, thể hiện thái độ coi thường pháp luật và không thể tự cải tạo. Do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, cần y án sơ thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Trường A và bị cáo Nguyễn Văn N; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 163/2020/HS-ST ngày 17 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương về phần hình phạt, sửa phần áp dụng điều luật đối với bị cáo Phan Trường A.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 35, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt Phan Trường A 26 (Hai mươi sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”, được trừ 03 (Ba) ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 25 (Hai mươi lăm) tháng 27 (Hai mươi bảy) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 2 Điều 35, Điều 17, Điều 58, Điều 38, khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 15 (Mười lăm) tháng tù về tội Đánh bạc; tổng hợp hình phạt 12 (Mười hai) tháng tù tại bản án số 05/2020/HSST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 27 (Hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/5/2020.
2. Về án phí phúc thẩm: Phan Trường A và Nguyễn Văn N mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 17/03/2021.
Bản án 17/2021/HS-PT ngày 23/03/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 17/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về