Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 04/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 04 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 992/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ng, sinh năm 1985; địa chỉ: Số B, khu phố T, phường T, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Trương Nhựt L, sinh năm 1977; địa chỉ: Số B, khu phố T, phường T, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 11 năm 2020 và quá trình tố tụng nguyên đơn chị Trần Thị Ng trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Trương Nhựt L có thời gian tìm hiểu nhau hơn một năm thì tự nguyện chung sống được gia đình hai bên tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn ngày 04/02/2013 tại UBND xã V, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 64, quyển số 01/2013. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc.

Sau khi kết hôn vợ chồng thuê trọ sinh sống tại địa chỉ A, tổ 7, khu phố T, phường T, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến cuối năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh L ham chơi hay tụ tập bạn bè đi uống rượu về khuya, không lo lắng cho gia đình, cũng không phụ giúp chị vấn đề tài chính, mọi chi phí sinh hoạt trong gia đình đều do một mình chị trang trải. Bản thân chị đã nhiều lần khuyên nhủ anh L và cho anh L nhiều cơ hội để sửa đổi nhưng anh L vẫn không thay đổi. Gia đình hai bên cũng đã khuyên anh L sửa đổi nhưng vẫn không có kết quả. Vợ chồng anh chị có thời gian ly thân từ năm 2013 đến nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng với anh Trương Nhựt L không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trương Tuấn K, sinh ngày 17/3/2014, hiện nay con đang ở với chị. Sau khi ly hôn chị yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai ngày 30 tháng 12 năm 2020, bị đơn anh Trương Nhựt L trình bày thống nhất với phần trình bày của chị Ng về quan hệ hôn nhân, cuộc sống chung vợ chồng, nguyên nhân mâu thuẫn và thời gian ly thân. Anh xác định cũng không còn tình cảm với chị Ng nên đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Ng. Về con chung: sau khi ly hôn anh đồng ý giao con chung cho chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng, anh không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: anh không yêu cầu tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên tòa, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Trần Thị Ng và bị đơn anh Trương Nhựt L có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự Tòa án xét xử vắng mặt chị Ng và anh L.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Thị Ng và anh Trương Nhựt L là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại tại UBND xã Vị Trung, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 64, quyển số 01/2013 ngày 04/02/2013 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[3] Theo đơn khởi kiện và lời trình bày trong quá trình tố tụng nguyên đơn xác định mâu thuẫn vợ chồng là do bị đơn không quan tâm, lo lắng, chia sẻ về tài chính cũng như các vấn đề phát sinh trong cuộc sống sinh hoạt gia đình mà ham chơi, thường xuyên tụ tập uống rượu, nguyên đơn và hai bên gia đình đã động viên khuyên nhủ bị đơn để bị đơn quan tâm, chăm sóc gia đình nhưng không có kết quả nên nguyên đơn đã chuyển về nhà mẹ đẻ để sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay không ai quan tâm đến cuộc sống của ai và yêu cầu được ly hôn với bị đơn. Tại bản tự khai ngày 30 tháng 12 năm 2020, bị đơn thống nhất với toàn bộ lời trình bày của nguyên đơn và cũng xác định không còn tình cảm với nguyên đơn nên đồng ý ly hôn theo yêu cầu của nguyên đơn. Xét, đây là sự tự nguyện, thuận tình ly hôn của các đương sự nên Tòa án ghi nhận. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị Ng là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 uật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trương Tuấn K, sinh ngày 17/3/2014. Sau khi ly hôn chị Ng yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng, anh L đồng ý giao con cho chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng và anh không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là sự thỏa thuận của các đương sự nên Tòa án ghi nhận.

[6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Trần Thị Ng phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 235, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Ng được ly hôn với anh Trương Nhựt L (giấy chứng nhận kết hôn số 64, quyển số 01/2013 do UBND xã V, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang ngày 04/02/2013).

2. Về con chung: Anh Trương Nhựt L giao con chung tên Trương Tuấn Kiệt, sinh ngày 17/3/2014 cho chị Trần Thị Ng trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Trương Nhựt L không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn chị Ng phải tạo điều kiện cho anh L trong việc thăm nom, chăm sóc con, không ai có quyền ngăn cản anh L thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Ng phải chịu 300.000 ba trăm nghìn đồng án phí ly hôn được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0048950 ngày 12 tháng 11 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 mười lăm ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 04/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về