Bản án 17/2021/DS-PT ngày 12/01/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 17/2021/DS-PT NGÀY 12/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 433/2020/TLPT-DS ngày 03/11/2020 về việc tranh chấp: “Hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 54/2020/DSST ngày 11/08/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 523/2020/QĐ-PT ngày 06/11/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số: 557/2020/QĐ-PT ngày 01/12/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Huyền N, sinh năm 1976; (Có mặt) Địa chỉ: ấp P, xã V, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn:

- Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1963; (xin vắng mặt) - Bà Hồ Thị Nh, sinh năm 1959; (Có mặt) Cùng địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lê Bảo T, sinh năm 1983; (Có mặt) Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1984; (Có mặt) Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

*. Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Văn Th và bà Hồ Thị Nh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm:

* Nguyên đơn bà Trần Thị Huyền N trình bày:

Ngày 20/12/2018 (âm lịch), bà Ncó cho ông Nguyễn Văn Th và bà Hồ Thị Nh mượn số tiền 70.000.000 đồng, không lãi suất, hẹn 02 tháng sau sẽ trả đủ. Bà N có viết biên nhận, ông Tvà bà N có ký tên vào biên nhận. Tuy N, cuối biên nhận có ghi thêm nội dung thời hạn bốn tháng vì khi đó bà N sợ ông T và bà N không trả được trong 02 tháng nên bà cho thời gian thành 04 tháng. Khi đến hạn, ông T và bà N không trả cho bà được khoản tiền nào và kéo dài cho đến nay.

Do đó, nay bà Nkhởi kiện yêu cầu ông Tvà bà N liên đới trả cho bà Nsố tiền 70.000.000 đồng, trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu trả lãi.

* Bị đơn bà Hồ Thị Nh trình bày:

Trước đây con trai ông T, bà N là anh Nguyễn Văn T có chơi đá gà qua mạng và nợ lại anh Lê Bảo T số tiền 220.000.000 đồng. Đến ngày 20/12/2018 (âm lịch), anh T có dẫn theo chị N đến nhà bà đem theo một số tiền bà không biết bao nhiêu, yêu cầu bà và chồng bà phải làm một biên nhận mượn của chị N số tiền 70.000.000 đồng. Khi anh T và chị N tới nhà chỉ có bà ở nhà, lúc sau anh Tịnh lấy điện thoại của bà gọi cho ông T về. Sau khi bà làm biên nhận, vợ chồng bà ký tên thì số tiền đó anh T và chị N làm gì bà không biết. Bà N thừa nhận bà và ông T có viết biên nhận và ký tên vào biên nhận do chị N cung cấp. Tuy N, do xuất phát từ việc con trai ông, bà nợ cờ bạc, xã hội đen đòi đâm, đòi chém nên ông, bà sợ tính mạng con trai ông bà bị đe dọa nên bà mới viết và ký biên nhận đó. Anh T thống nhất cộng số nợ anh T nợ anh T và số nợ 70.000.000 đồng mà vợ chồng bà đã viết biên nhận, anh T chỉ yêu cầu trả 150.000.000 đồng. Sau 04 tháng kể từ khi viết biên nhận, vợ chồng bà có đưa cho anh T 50.000.000 đồng để anh T đưa cho chị N, anh T có viết phiếu nhận ngày 27/4/2019. Sau đó, anh T có trả được cho anh T 50.000.000 đồng lần lượt vào các ngày 01/7/2019, 21/8/2019, 15/10/2019, 02/12/2019, 10/01/2020, trong đó 20.000.000 đồng là trả dứt điểm phần 70.000.000 đồng của chị N. Ngoài ra, tổng cộng số nợ anh T thống nhất chỉ yêu cầu 150.000.000 đồng mà bà đã trả được 100.000.000 đồng. Do đó, chỉ còn nợ lại 50.000.000 đồng và đây là số nợ giữa anh T với anh T không liên quan đến ông bà. Do đó, nay chị N yêu cầu vợ chồng bà trả số tiền 70.000.000 đồng bà không đồng ý.

* Bị đơn ông Nguyễn Văn Th trình bày:

Thống nhất với lời trình bày của bà N. Với yêu cầu khởi kiện của bà N thì ông không đồng ý trả tiền cho bà N. Số tiền này là tiền nợ do anh T chơi đá gà qua mạng do anh T tổ chức. Vợ chồng ông bà đã trả cho anh T được 100.000.000 đồng, hiện tại chỉ còn nợ anh T là 50.000.000 đồng.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Bảo T trình bày:

Trước đây, anh T có cho anh T mượn 228.300.000 đồng. Sau đó, anh T đã trả cho cho anh T 100.000.000 đồng, anh T có viết biên nhận cho anh T. Số tiền anh T mượn anh T là riêng, không liên quan gì đến nợ giữa bà N cho ông T và bà N mượn.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn T trình bày:

Anh T có tham gia đá gà trên mạng do anh Lê Bảo T tổ chức và thua anh T với số tiền là 290.000.000 đồng. Sau đó, anh T có dắt bà N đến nhà anh T hâm dọa mẹ anh T không trả nợ là xã hội đen đứng ngoài bờ nên mẹ anh T là bà Hồ Thị N có mượn số tiền là 70.000.000 đồng của bà Nvào ngày 20 tháng 12 năm 2018. Sau đó, ông T có viết giấy thỏa thuận nợ là 150.000.000 đồng là hết nợ bao gồm luôn cả số tiền nợ của bà N. Sau đó, anh T có trả được 100.000.000 đồng. Vì vậy, anh T còn nợ ông T số tiền là 50.000.000 đồng. Nay với yêu cầu khởi kiện của bà N thì ông T không đồng ý.

* Bản án dân sự sơ thẩm số 54/2020/DSST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

- Căn cứ các Điều 147, 235 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 463, Điều 466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Huyền N.

Buộc ông Nguyễn Văn Th và bà Hồ Thị Nh liên đới trả cho bà Trần Thị Huyền N số tiền vốn là 70.000.000 đồng.

Kể từ ngày bà Trần Thị Huyền N có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Nguyễn Văn Th và bà Hồ Thị Nh chậm thực hiện thì phải chịu lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 11/8/2020 bị đơn bà Hồ Thị Nh và ông Nguyễn Văn Th kháng cáo bản án sơ thẩm, bà N và ông Tkhông đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm vì ông, bà đã trả số tiền 70.000.000đồng cho bà N do anh Lê Bảo T nhận thay.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn ông Nguyễn Văn Th (có đơn xin xét xử vắng mặt) và bà Hồ Thị Nh vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Ngang. Nguyên đơn bà Trần Thị Huyền N không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của ông Than, bà N.

Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn không rút kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng các qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Than, bà N. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các đương sự, Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị đơn làm trong thời hạn luật định là hợp lệ.

- Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn Nguyễn Văn Th có đơn xin xét xử vắng mặt;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.

[2] Về nội dung kháng cáo: Ông T, bà N yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì ông T, bà N đã trả số tiền 70.000.000 đồng cho bà N. Xét thấy: theo biên nhận ghi ngày 20/12/2018 (âm lịch) thể hiện bà N có cho bà N và ông T vay số tiền 70.000.000 đồng, thời hạn vay 04 tháng, không lãi suất. Phía bà N và ông Tcó viết giấy vay và cùng ký tên vào giấy vay tiền. Tại phiên tòa sơ thẩm bà N, ông T cũng thừa nhận có ký tên vào giấy vay tiền ngày 20/12/2018 (âm lịch) và nhận tiền từ bà N. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà N, ông Tcó vay của bà Nsố tiền 70.000.000 đồng là có căn cứ.

[3] Ông T, bà N cho rằng, anh Nguyễn Văn T là con trai ông bà có nợ anh Lê Bảo T số tiền 228.300.000 đồng, anh Tịnh có làm giấy thỏa thuận vào ngày 27/4/2019 anh Toàn chỉ phải trả cho anh Tịnh số tiền 150.000.000 đồng bao gồm cả số tiền 70.000.000 đồng ông T, bà N vay của bà N coi như hết nợ. Trong quá trình trả nợ bà N có đưa cho anh T trả cho anh Tịnh 50.000.000 đồng và anh T cũng trả dần cho anh T tổng cộng 5 lần, mỗi lần 10.000.000 đồng nên hiện nay anh Toàn chỉ còn nợ anh T 50.000.000 đồng và đây là số nợ riêng của anh T1 đối với anh T. Đối với số tiền 70.000.000 đồng mà bà N và ông Tvay của bà N thì bà đã trả đầy đủ cho bà N thông qua anh T. Lời trình bày của ông T, bà N không được phía anh T, bà N thừa nhận. Bà N, ông T không có chứng cứ gì chứng minh cho việc có đưa anh T 70.000.000 đồng để trả nợ cho bà N. Mặc khác, bà N, ông T vay tiền của bà N nhưng lại cho rằng có thỏa thuận với anh T việc anh T chỉ phải trả 150.000.000 đồng cho anh T thì coi như hết nợ, bao gồm cả số tiền 70.000.000 đồng ông T, bà N vay của bà N, sự thỏa thuận này chưa được sự đồng ý của bà N nên không có cơ sở chấp nhận lời trình bày của ông Th, bà N.

Ông Th, bà N kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có cơ sở, nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Th, bà N.

[4] Về án phí: Bà Hồ Thị Nh thuộc trường hợp người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí nên cần xem xét sửa bản án sơ thẩm miễn án phí sơ thẩm và phúc thẩm cho bà N. Do sửa bản án sơ thẩm nên ông Nguyễn Văn Th không phải chịu án phí phúc thẩm.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 147, 235, khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 288, Điều 463, Điều 466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 12, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn Th và bà Hồ Thị Nh. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 54/2020/DSST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Huyền N.

Buộc ông Nguyễn Văn Th và bà Hồ Thị Nh thực hiện nghĩa vụ liên đới trả cho bà Trần Thị Huyền N số tiền vốn là 70.000.000 đồng.

Kể từ ngày bà Trần Thị Huyền N có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Nguyễn Văn Th và bà Hồ Thị Nh chậm thực hiện thì phải chịu lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí:

Về án phí dân sự sơ thẩm - Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Hồ Thị Nh.

- Ông Nguyễn Văn Th phải chịu 1.750.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Hoàn lại cho bà Trần Thị Huyền N số tiền 1.750.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 49393 ngày 28 tháng 4 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Về án phí dân sự phúc thẩm Ông Nguyễn Văn Th và Hồ Thị Nh không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Trả lại bà Hồ Thị Nh 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí bà N đã nộp theo biên lai thu số 49498 ngày 12/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/DS-PT ngày 12/01/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:17/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về