Bản án 17/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 17/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:27/2020/HSST ngày 02/03/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Văn C; Sinh năm: 1993, tại tỉnh Tuyên Quang Hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã̃ Phước S, B, tỉnh Bình Phước Số chứng minh nhân dân 285358573; nghề nghiệp: làm rẫy ; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Cao L; con ông Lương Văn T (đã chết) và bà Nông Thi T, sinh năm: 1966; Bị cáo có 03 anh chị ruột, bị cáo là con thứ 3 trong gia định ; Tiền sự; tiền án: Không. Ngày 22/10/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện T , tỉnh Đăk Nông áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng. Ngày 15/11/2019 bị cáo đã chấp hành xong . Bị cáo bị tạm giữ , tạm giam từ ngày 07/01/2020 cho đến nay. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

* Về hành vi phạm tội của bị cáo Lương Văn C:

Khoảng 07 giờ ngày 07/01/2020, Lương Văn C đi bộ đến khu vực “Lang Mông” thuộc xã Đ , huyện T , tỉnh Đăk Nông gặp một người ông (không rõ nhân thân, lý lịch) mua 02 gói ma túy, với giá 100.000 đồng bỏ vào túi áo khoác bên phải, rồi Cương đi bộ về đến thôn Đ , xã̃ Đ, huyện B , tỉnh Bình Phước thì bị Công an huyện B kiểm tra, phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tangthu giữ niêm phong tang vật có chữ ký của C để điều tra theo quy định của pháp luật.

Tại bản giám định số 04/2020/GĐ-MT ngày 14/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận : chất bột màu trắng có trong 02 gói giấy, được niêm phong chữ ký của Cương cùng chữ ký của Công an xã Đ gửi giám định là ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,1665 gam.

- Về vật chứng vụ án : số ma túy còn lại sau khi giám định đã được niêm phong, 01 áo khoác màu đen , 01 điện thoại di động hiệu FORME Modei D777. Cơ quan điều tra đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Đăng để phục vụ việc truy tố, xét xử.

Tại phiên tòa: bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến gì về Quyết định trưng cầu giám định.

Tại bản cáo trạng số: 32/CT - VKS ngày 28/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Lương Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” quy định tai điểm c khoan 1 điều 249 của Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lương Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

-Về hình phạt đề nghị áp dụng:

Áp dụng: điểm c khoản 1 điều 249 bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 điều 51 bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lương Văn C từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

-Về vật chứng vụ án:

Áp dụng: Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

+ Tịch thu tiêu hủy sô ma tuy con lai sau khi giam định đa được niêm phong,

+ Trả lại 01 điện thoại di động và 01 áo khoác đen cho bị cáo Lương Văn C vì không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo Lương Văn C thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

* Lời nói sau cùng của bị cáo Lương Văn C thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện B, Viện kiểm sát nhân dân huyện B trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Lương Văn C:

Tại phiên tòa, bị cáo Lương Văn C đã thừa nhận: Khoảng 07 giờ ngày 07/01/2020, Lương Văn Cương đi bô đên khu vưc “Lang Mông” thuộc xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông, gặp một người đàn ông (không ro nhân thân, lý lịch) mua 02 gói ma túy, với giá 100.000 đồng bỏ vào túi áo khoác bên phải , rồi Cương đi bộ về đến thôn Đ , xã̃ Đ , huyện B , tỉnh Bình Phước thì bị Công an huyện B kiểm tra , phát hiên, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong tang vật, có chữ ký của C . Căn cứ vào kết quả trưng cầu giám định số 04/2020/GĐ-MT ngày 14/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận : Heroin trong 02 gói giấy bị cáo C mà Công an lập biên bản thu giữ quả tang có khối lượng 0,1665 gam.

Hành vi trên của bị cáo Lương Văn C đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tai điểm c khoan 1 Điêu 249 của Bộ Luật hình sự.

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Lương Văn C là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ chất ma túy là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã̃ hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Xét toàn bộ vụ án, tính chất mức độ phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Vào Ngày 22/10/2018, bị cáo bị Công an huyện T , tỉnh Đăk Nông áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng. Ngày 15/11/2019 bị cáo đã chấp hành xong. Bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân làm người có ích cho gia đình và xã̃ hội mà tiếp tục đi mua ma túy về sử dụng.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Lương Văn C trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Như vậy bị cáo có tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, cần xử bị cáo nghiêm tương ứng với hành vi phạm tội.

[4] Về vật chứng vụ án:

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên trả cho bị cáo Lương Văn C 01 điên thoai di đông hiệu FORME Modei D777 và 01 áo khoác đen vì không liên quan đến hành vi phạm tội.

Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi giám định đã được niêm phong.

[5] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu theo luật định.

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo Cường quá trình điều tra xét xử không xác định nhân thân lai lịch nên cần tách ra tiếp tục xác minh xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Tuyên bố bị cáo Lương Văn Cương phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lương Văn C 01 (Một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/01/2020.

[2]. Về vật chứng vụ án:

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi giám định đã được niêm phong.

Tuyên trả cho bị cáo Lương Văn C 01 điện thoại di động hiệu FORME Modei D777 và 01 áo khoác đen.

(Kèm theo biên bản giao nhận vật chứng số 0009757 ngày 12/2/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng).

[3] Về án phí:

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự,

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lương Văn C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 17/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về