Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 04/05/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU 

BẢN ÁN 17/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/05/2020 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 04 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công Ki vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 32/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Lê Kiều O, sinh năm 1981 Địa chỉ: ấp LC, xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu 2/. Bị đơn: Anh Lê Văn K, sinh năm 1988 Địa chỉ: ấp LC, xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị O và anh K có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/01/2020, lời Ki trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Lê Kiều O và bị đơn anh Lê Văn K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Kiều O và anh Lê Văn K thống nhất xác định anh chị đi đến hôn nhân do quen biết, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục tại địa phương vào năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 27/3/2009 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị O và anh K cùng thống nhất xác định: do trong thời gian chung sống vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, từ đó dẫn đến đời sống vợ chồng không còn hạnh phúc, hiện anh chị đã sống ly thân với nhau khoảng 02 năm nay, từ lúc xa nhau cho đến nay vợ chồng cũng có nhiều lần nói chuyện hàn gắn với nhau nhưng không có kết quả, nay chị O nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Văn K và anh Lê Văn K cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Lê Kiều O.

Về nuôi con chung: Chị Lê Kiều O và anh Lê Văn K thống nhất xác định thời gian chung sống vợ chồng anh chị có 01 người con chung tên Lê Ngọc T, sinh ngày 04/01/2009, hiện con chung đang sống chung với anh K và cha mẹ anh K, khi ly hôn chị O yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh K xác định anh tôn trọng quyết định của con nếu con muốn sống với ai thì người đó có trách nhiệm nuôi dưỡng, vấn đề cấp dưỡng nuôi con anh không đặt ra.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Kiều O và anh Lê Văn K thống nhất xác định vợ chồng tự thỏa thuận nên không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của các đương sự là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Giữa chị O và anh K kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, nay anh chị thống nhất ly hôn, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình công nhận sự thuận tình ly hôn của anh chị là có căn cứ.

Về nuôi con chung: xét thấy con chung từ khi vợ chồng sống ly thân với nhau thì anh K là người trực tiếp nuôi con, tuy nhiên khi ly hôn chị O có yêu cầu được nuôi con, theo biên bản lấy lời khai cháu Lê Ngọc T ngày 04/02/2020 thì cháu T xác định cháu có nguyện vọng được sống với mẹ cháu là chị O khi cha mẹ cháu ly hôn, ý kiến của cháu là hoàn toàn tự nguyện và không bị ai đe dọa hay ép buộc, anh K cũng tôn trọng quyết định của con chung. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cho chị O nuôi dưỡng là phù hợp.

Về tài sản chung và nợ chung: Do chị O và anh K đặt ra yêu cầu xem xét giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí thì chị O phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị O có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh K. Anh K có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị O và anh K có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị O và anh K.

[2] Về nội dung vụ án: Chị O và anh K cưới nhau vào năm 2008, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 27/3/2009 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị O đối với anh K thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị O và anh K lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân khoảng 02 năm nay. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Quá trình Tòa án làm việc thì cả chị O và anh K đều có nguyện vọng được ly hôn với nhau. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn trong hôn nhân của anh chị đã rất trầm trọng, cuộc sống chung của anh chị là không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị O và anh K để anh chị có một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, ổn định hơn là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về nuôi con chung: Chị O có nguyện vọng được nuôi con khi ly hôn, xét thấy từ khi vợ chồng anh chị sống xa nhau thì anh K và gia đình anh K trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Ngọc T và đã đảm bảo điều kiện để nuôi cháu rất tốt, tuy nhiên theo biên bản lấy lời Ki ngày 04/02/2020 thì cháu Lê Ngọc T xác định có nguyện vọng được sống với mẹ khi cha mẹ cháu ly hôn, anh K xác định con có nguyện vọng sống với ai thì anh tôn trọng theo ý kiến của con, mặc khác cháu T là con gái đang tuổi phát triển tâm sinh lý nếu sống với chị O sẽ phù hợp hơn. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị O, giao cháu T cho chị O nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục.

Chị O không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh K. Anh K có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Do chị O và anh K không đặt ra xem xét giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị O phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH 

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51 và 55, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Kiều O và anh Lê Văn K.

2/. Về nuôi con chung: giao người con tên Lê Ngọc T, sinh ngày 04/12/2009 cho chị Lê Kiều O nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Cháu T hiện sống với anh K nên buộc anh K có nghĩa vụ giao cháu T cho chị O nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Chị Lê Kiều O không yêu cầu anh Lê Văn K phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh K.

Anh Lê Văn K có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí: Chị Lê Kiều O phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004182 ngày 04 tháng 02 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công Ki báo cho chị Lê Kiều O và anh Lê Văn K được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 04/05/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

Số hiệu:17/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:04/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về