Bản án 17/2020/DS-ST ngày 15/10/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC – TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 17/2020/DS-ST NGÀY 15/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày15 tháng 10 năm 2020 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 21/2020/TLST- DS ngày 19 tháng 6 năm 2020 về “ tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST - DS ngày 14 tháng 9 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 19/2020/QĐST – DS ngày 29 tháng 9 năm 2020 đối với các đương sự.

1. Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị T – Sinh năm: 1980, ông Lê Văn H – Sinh năm 1980.

Đều trú tại: Khu 1, thị trấn V, huyện V, tỉnh T.

Người đại diện theo ủy quyền cho ông Lê Văn H là: Bà Trịnh Thị T (theo giấy ủy quyền ngày 18/6/2020).

Có mặt tại phiên tòa 2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị P – Sinh năm: 1969, Trú tại:Thôn Y, xã Y, huyện V, tỉnh T.

Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18 tháng 6 năm 2020, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Trịnh Thị T trình bày:

Vợ chồng bà có cho bà Nguyễn Thị P vay 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng) vào ngày 21/4/2017, thời hạn vay đến ngày 21/5/2017, không lãi. Khi vay bà P có viết giấy vay nợ. Đã quá thời hạn mà hai bên thỏa thuận nhưng bà P vẫn không trả nợ cho vợ chồng bà T cho dù vợ chồng bà T đã gặp bà P nhiều lần để đòi nợ nhưng bà P đều khất lần không trả cho vợ chồng bà. Đến ngày 09/11/2018 bà T đã nhận từ bà LG 50.000.000 đồng để trừ vào số tiền nợ gốc mà bà P đã vay. Ngày 29/8/2019 bà P đã trả thêm được 36.000.000 đồng để trừ vào khoản tiền gốc đã vay sau đó bà P không trả nữa. Vì bà Nguyễn Thị P không có thiện chí trả nợ nên vợ bà T, ông H đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc buộc bà Nguyễn Thị P phải có trách nhiệm trả cho vợ chồng bà T, ông H số tiền nợ gốc đã vay còn lại là 64.000.000 đồng (Sáu mươi bốn triệu đồng) và tiền lãi phát sinh của số tiền nợ gốc 150.000.000 đồng tính từ ngày bà P vi phạm nghĩa vụ trả nợ (ngày 22/5/2017) đến ngày 09/11/2018; Lãi suất phát sinh của số tiền 100.000.000 đồng tính từ ngày 10/11/2018 đến ngày 29/8/2019 và lãi suất phát sinh của số tiền nợ gốc còn lại là 64.000.000 đồng tính từ ngày 30/8/2019 cho đến ngày xét xử (15/10/2020) theo mức lãi suất mà pháp luật quy định.

Tại bản tự khai ngày 23/6/2020 và quá trình giải quyết vụ án bị đơn là bà Nguyễn Thị P trình bày như sau:

Vào ngày 21/4/2017, bà có vay vợ chồng bà Trịnh Thị T, ông Lê Văn H số tiền là 150.000.000đ ( một trăm năm mươi triệu đồng). Thời hạn vay đến ngày 21/5/2017. Khi vay hai bên không thỏa thuận lãi suất trong giấy vay nợ nhưng có thỏa thuận miệng với nhau lãi suất là 2.000đồng/ triệu/ngày. Hàng tháng bà đã trả lãi đều đặn cho bà T, ông H. Đến tháng 11/2018, gia đình bà gặp khó khăn nên bà mới không trả lãi cho bà T, ông H nữa nhưng những lần trả lãi hai bên đều không viết giấy tờ gì. Số tiền này bà vay hộ cho bà Trịnh Thị P là người cùng làng với bà, bà Trịnh Thị P là người nhận tiền nhưng bà là người viết giấy vay nợ nên bà sẽ có trách nhiệm trả khoản tiền nợ đã vay cho bà T, ông H. Ngày 09/11/2018, bà T đã nhận từ bà LG số tiền là 50.000.000 đồng để trừ vào khoản tiền gốc mà bà đã vay. Ngày 29/8/2019, bà P đã chuyển khoản qua ngân hàng vào tài khoản của ông H số tiền là 36.000.000 đồng để trừ vào số tiền gốc đã vay. Quá trình giải quyết vụ án bà P đều công nhận còn nợ vợ chồng bà T, ông H số tiền nợ gốc là 64.000.000 đồng (Sáu mươi bốn triệu đồng). Bà cũng đồng ý trả gốc và lãi như vợ chồng bà T, ông H yêu cầu nhưng vì điều kiện kinh tế của gia đình bà gặp khó khăn nên bà đề nghị được trả dần cả gốc và lãi cho vợ chồng bà T, ông H.

Tại phiên tòa, bà Trịnh Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu bà Nguyễn Thị P phải trả số tiền gốc còn nợ lại là 64.000.000 đồng (Sáu mươi bốn triệu đồng) và tiền lãi phát sinh của số tiền nợ gốc 150.000.000 đồng tính từ ngày bà P vi phạm nghĩa vụ trả nợ (ngày 22/5/2017) đến ngày 09/11/2018; Lãi suất phát sinh của số tiền 100.000.000 đồng tính từ ngày 10/11/2018 đến ngày 29/8/2019 và lãi suất phát sinh của số tiền nợ gốc còn lại là 64.000.000 đồng tính từ ngày 30/8/2019 cho đến ngày xét xử (15/10/2020) theo mức lãi suất mà pháp luật quy định, bà không đồng ý cho bà P trả nợ dần. Bà Nguyễn Thị P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và trong quá trình giải quyết vụ án Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Về tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết vụ án: Do bà Nguyễn Thị P còn nợ vợ chồng bà Trịnh Thị T, ông Lê Văn H số tiền là 64.000.000 đồng (Sáu mươi bốn triệu đồng). Quá hạn trả nợ bà P không trả nên vợ chồng bà T, ông H khởi kiện ra Tòa án yêu cầu bà P phải trả số tiền đã vay còn nợ lại là 64.000.000 đồng và số tiền lãi phát sinh. Bị đơn là bà NguyễnThị P cư trú tại: Thôn Y, xã Y, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa theo khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà T và bà P không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại điều 220 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bà Nguyễn Thị P đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn cố T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà P là đúng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Trên cơ sở chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, cũng như lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn và căn cứ vào khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015 vụ án có quan hệ pháp luật: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

[3] Về nội dung: Căn cứ vào giấy vay tiền ngày 21/4/2017 bà Nguyễn Thị P có vay của vợ chồng bà Trịnh Thị T, ông Lê Văn H số tiền là 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng), thời hạn vay đến ngày 21/5/2017. Đến hạn bà P không trả nợ cho dù vợ chồng bà T, ông H đã đòi nhiều lần. Ngày 09/11/2018, bà P đã trả cho bà T, ông H 50.000.000 đồng; Ngày 29/8/2019, bà P đã trả cho bà T, ông H 36.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án bà T và bà P đều thống nhất bà P còn nợ vợ chồng bà T, ông H số tiền nợ gốc là 64.000.000 đồng (Sáu mươi bốn triệu đồng). Như vậy, khẳng định hợp đồng vay nợ giữa vợ chồng bà T, ông H với bà Nguyễn Thị P là hợp đồng vay tiền có thời hạn. Bà P đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán như đã cam kết. Do đó, bà T, ông H yêu cầu bà P phải trả nợ cho bà T, ông H số tiền gốc đã vay còn nợ lại là: 64.000.000 đồng (Sáu mươi bốn triệu đồng) là có căn cứ nên được chấp nhận. Buộc bà Nguyễn Thị P phải có trách nhiệm trả cho vợ chồng bà Trịnh Thị T, ông Lê Văn H số tiền nợ gốc đã vay còn lại là 64.000.000đ (Sáu mươi bốn triệu đồng) là phù hợp với quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015.

[4] Về lãi suất: Giao dịch dân sự giữa vợ chồng bà T, ông H và bà P trong giấy vay nợ không thể hiện lãi suất, bà T khẳng định khi cho bà P vay tiền hai bên thống nhất không tính lãi, bà P khẳng định lãi suất bà T, ông H cho vay là 2.000đồng/triệu/ngày và đã trả lãi lãi đến hết tháng tháng 11/2018, nhưng bà P không đưa ra được chứng cứ để chứng minh. Quá trình giải quyết vụ án bà P cũng thống nhất với yêu cầu đòi lãi suất của bà T. Cụ thể: tiền lãi phát sinh của số tiền nợ gốc 150.000.000 đồng tính từ ngày bà P vi phạm nghĩa vụ trả nợ (ngày 22/5/2017) đến ngày 09/11/2018; Lãi suất phát sinh của số tiền 100.000.000 đồng tính từ ngày 10/11/2018 đến ngày 29/8/2019 và lãi suất phát sinh của số tiền nợ gốc còn lại là 64.000.000 đồng tính từ ngày 30/8/2019 cho đến ngày xét xử (15/10/2020) theo mức lãi suất mà pháp luật quy định. Bà T và bà P không thống nhất được với nhau về mức lãi suất cho vay, như vậy có sự tranh chấp về lãi suất nên áp dụng quy định tại Điều 357, khoản 4 Điều 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 để tính lãi suất là 10%/ năm:

Từ ngày 22/5/2017 đến ngày 09/11/2018 là 17 tháng 18 ngày: 150.000.000 đồng x 0,833%/ tháng x 17 tháng 18 ngày = 21.991.200đồng.

Từ ngày 10/11/2018 đến ngày 29/8/2019 là 09 tháng 19 ngày: 100.000.000 đồng x0,833%/ tháng x 09 tháng 19 ngày = 8.024.554 đồng.

Từ ngày 30/8/2019 đến ngày 15/10/2020 là 13 tháng 15 ngày: 64.000.000 đồng x 0,833%/tháng x 13 tháng 15 ngày = 7.197.120 đồng.

Tng số tiền lãi bà Nguyễn Thị P phải trả cho vợ chồng bà Trịnh Thị T, ông Lê Văn H là: 37.212.874 đồng (Ba mươi bảy triệu hai trăm mười hai nghìn tám trăm bảy mươi bốn đồng).

Tng cộng tiền gốc và lãi bà Nguyễn Thị P phải trả cho vợ chồng bà Trịnh Thị T, ông Lê Văn H là 64.000.000 đồng + 37.212.874 đồng = 101.212.874 đồng (Một trăm lẻ một triệu hai trăm mười hai nghìn tám trăm bảy mươi bốn đồng).

[6] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị T, ông Lê Văn H được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị P phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch tương ứng với số tiền phải trả nợ. Trả lại cho bà T, ông H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 điều 39; khoản 1 Điều 147, Điều 220, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 280, Điều 357, Điều 463, Điều 466, khoản 2 Điều 468, khoản 1 Điều 470 của Bộ luật dân sự 2015. Khoản 1 Điều 6, điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị T, ông Lê Văn H về việc buộc bà Nguyễn Thị P phải trả số tiền nợ gốc đã vay và tiền lãi phát sinh.

2. Buộc bà Nguyễn Thị P phải có trách nhiệm trả cho bà Trịnh Thị T, ông Lê Văn H số tiền nợ gốc còn lại là 64.000.000 đồng và 37.212.874 đồng tiền lãi. Tổng số tiền bà Nguyễn Thị P phải trả là: 101.212.874 đồng (Một trăm lẻ một triệu hai trăm mười hai nghìn tám trăm bảy mươi bốn đồng).

Kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật và người có quyền thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ nói trên thì phải chịu thêm lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án tính từ ngày 16/10/2020, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

4. Về án phí: Buộc bà Nguyễn Thị P phải nộp 5.060.643 đồng (Năm triệu không trăm sáu mươi nghìn sáu trăm bốn mươi ba đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Trả lại cho bà Trịnh Thị T, ông Lê Văn H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.750.000đồng ( Ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng), theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí Tòa án số AA/2018/0004680 ngày 19/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự và điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thời hiệu thi hành án được thc hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2020/DS-ST ngày 15/10/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:17/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về