Bản án 17/2020/DS-PT ngày 05/11/2020 về tranh chấp đòi lại tài sản, yêu cầy hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hủy hợp đồng mua bán nhà ở, quyền sử dụng đất

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 17/2020/DS-PT NGÀY 05/11/2020 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN, YÊU CẦY HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỦY HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ Ở, QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 05 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 160/2020/TLPT-DS ngày 28 tháng 02 năm 2020 về việc: “Tranh chấp đòi lại tài sản, yêu cầy hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hủy Hợp đồng mua bán nhà ở, quyền sử dụng đất Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/DS-ST ngày 29/05/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 73/2020/QĐ-PT ngày 19 tháng 10 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị L, 88 tuổi; địa chỉ: A, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Văn D, sinh năm: 1966, địa chỉ: Xóm 8, thôn A 2, xã M, huyện P, tỉnh Bình Định; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Lê Thị L: Luật sư Trần Duy L thuộc Công ty Luật TNHH hai thành viên trở lên T, Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai; có mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn T (TB) sinh năm: 1945 (chết) và bà Trần Thị Kim Q, sinh năm: 1946 (chết) Địa chỉ cư trú khi còn sống: thôn T, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định.

- Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông T và bà Q 2.1- Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm: 1966; địa chỉ: tỉnh Bình Định, có mặt.

2.2- Bà Nguyễn Thị Kim M, sinh năm: 1968; địa chỉ: T Bắc, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định.

2.3- Bà Nguyễn Thị Nhật L, sinh năm: 1974; địa chỉ: thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định.

2.4- Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm: 1976; địa chỉ: thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

2.5- Bà Nguyễn Thị Kim Q, sinh năm: 1978; địa chỉ: thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

2.6- Ông Nguyễn Tấn V, sinh năm: 1980; địa chỉ: thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Thị Kim M, Nguyễn Thị Nhật L, Nguyễn Thị Kim H, Nguyễn Thị Kim Q, Nguyễn Tấn V: Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm: 1966, địa chỉ: tỉnh Bình Định (Theo văn bản ủy quyền ngày 06/7/2018), có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 - Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Bình Định.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Mạnh C - Phó trưởng Phòng T nguyên và Môi trường huyện P; vắng mặt.

3.2 - Uỷ ban nhân dân thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định;

Người đại diện theo ủy quyền là bà Lê Thị V, Cán bộ địa chính UBND thị trấn P; có đơn xin xét xử vắng mặt.

3.3 - Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Bình Định - Chi nhánh huyện P Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Công T - Phó Giám đốc Chi nhánh; vắng mặt.

3.4- Bà Nguyễn Thị Minh T - sinh năm: 1973; địa chỉ: Bình Định.

3.5- Bà Nguyễn Thị Lan H - sinh năm: 1982; địa chỉ: thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Minh T và bà Nguyễn Thị Lan H: Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm: 1966, địa chỉ: tỉnh Bình Định; có mặt.

3.6 - Ông Nguyễn Tấn V, sinh năm: 1980; địa chỉ: thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

4. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Lê Thị L, người đại diện theo ủy quyền là ông Võ Văn D, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, ông Võ Văn D trình bày:

Nguồn gốc thửa đất số 53, tờ bản đồ số 88 tọa lạc tại thôn T Nam, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định là của ông Võ Văn C và bà Lê Thị L quản lý sử dụng từ năm 1969 đến năm 1975. Vào năm 1975, gia đình bà L quay trở về quê hương và có đến ngôi nhà mà trước đây tại thôn T, xã Mỹ Q, huyện P để dựng lại nhà ở, nhưng ngôi nhà này đã bị gia đình của ông T, bà Q chiếm và quản lý sử dụng.

Do đó, bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Tấn T (con của ông T (TB) và bà Q) phải trả lại nhà đất và những tài sản gắn liền trên đất mà hiện nay do anh Nguyễn Tấn V đang quản lý sử dụng; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 00253 ngày 01/10/2009 do UBND huyện P cấp cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00149 ngày 17/3/2010 do UBND huyện P cấp cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T; hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của thửa đất số 53, tờ bản đồ số 88, địa chỉ tại thôn T Nam, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định giữa bên chuyển nhượng ông Nguyễn Tấn T, bà Nguyễn Thị Minh T và bên nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Tấn V.

- Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông T (TB) và bà Q, ông Nguyễn Tấn T trình bày:

Thửa đất số 53, tờ bản đồ số 88 tọa lạc tại thôn T Nam, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định có nguồn gốc là của cha mẹ ông là Ông Nguyễn Tấn T (TB) và Trần Thị Kim Q quản lý sử dụng từ năm 1975. Cha mẹ ông đều là thương binh, sau khi cống hiến cho công cuộc giải phóng đất nước trở về, đến tháng 10/1975 được sự quan tâm của chính quyền địa phương cấp cho một lô đất để xây nhà tại thị trấn P (nay là thửa đất số 53, tờ bản đồ số 88) và cha mẹ ông đã tiến hành làm đơn xin xây dựng nhà để ở trên thửa đất đó và đã được UBND cách mạng xã Mỹ Q chứng thực cho phép xây dưng nhà ở (gia đình ông sinh sống trong ngôi nhà đó) từ tháng 10/1975, đến ngày 01/10/2009 thì được UBND huyện P đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà L, bởi vì thửa đất trên là Nhà nước đã cấp cho gia đình ông, gia đình ông đã sinh sống liên tục ổn định từ năm 1975 đến nay là 45 năm và được UBND huyện P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu của bà L là không có cơ sở.

- Đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông T và bà Q: bà Nguyễn Thị Kim M; Nguyễn Thị Nhật L; Nguyễn Thị kim H; Nguyễn Thị Kim Q; Nguyễn Tấn V là ông Nguyễn Tấn T trình bày: Thống nhất như nội dung trình bày của ông Nguyễn Tấn T.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: UBND huyện P, người đại diện theo ủy quyền là ông Hồ Mạnh Cường trình bày:

Theo hồ sơ lưu trữ do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh huyện P thì thửa đất số 53, tờ bản đồ số 88 tại thôn T, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định có nguồn gốc do Ủy ban nhân dân cách mạng xã Mỹ Q đồng ý cấp cho vợ chồng bà Trần Thị Kim Q và ông Nguyễn tấn T (TB) xây dựng nhà ở năm 1975 sử dụng đến năm 1990 cho lại con trai là Nguyễn Tấn T sử dụng, được UBND thị trấn P, huyện P xác nhận, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện P thẩm tra và ý kiến của phòng T nguyên và Môi trường huyện theo quy định.

Việc UBND huyện P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 00149 cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T là đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00149 ngày 17/3/2010 do UBND huyện P cấp lại cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T được ban hành trên cơ sở thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 00253 ngày 01/10/2009 do UBND huyện P cấp cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T, do đó Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00253 ngày 01/10/2009 do UBND huyện P cấp cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T đã bị thu hồi nên không còn giá trị.

- UBND thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định; người đại diện theo ủy quyền là bà Lê Thị V trình bày:

Ngày 22/10/1975 ông Nguyễn Tấn T và bà Trần Thị Kim Q có làm đơn xin đất xây dựng nhà ở và đã được Chủ tịch UBND cách mạng xã Mỹ Q cho phép xây dựng nhà ở vào ngày 28/10/1975 (trên thửa đất hiện nay là số 53, tờ bản đồ số 88). Từ đó ông T, bà Q xây dựng nhà ở ổn định gần 20 năm không có ai tranh chấp cho nên đã đề nghị cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Về nguồn gốc thửa đất số 53, tờ bản đồ số 88, theo hồ sơ địa chính lưu trữ tại UBND thị trấn P tại Sổ mục kê quyển số 03 (đã được Sở Địa chính ký duyệt ngày 09/12/1998) có nguồn gốc là số thửa 84 thuộc tờ bản đồ số 11 (bản đồ giải thửa 299) ghi tên chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Tấn T.

- Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh huyện P, người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Công Trứ trình bày:

Căn cư hồ sơ lưu trữ, theo quy trình, thủ tục cấp Giấy chứng nhân quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T được UBND thị trấn P xác nhận nguồn gốc và một số giấy tờ liên quan dựa trên cơ sở cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 00253 ngày 01/10/2009 do UBND huyện P cấp cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T là đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 00149 ngày 17/3/2010 do UBND huyện P cấp.

Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện P thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ kiểm tra đầy đủ hồ sơ chuyển quyền. Theo đó hợp đồng mua bán nhà ở và quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T bán cho ông Nguyễn Tấn V được Phòng Tư pháp huyện P chứng thực ngày 07/11/2012 và giấy xác nhận quyền sở hữu nhà ở của ông Nguyễn Tấn T là có giá trị pháp lý.

- Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Minh T và bà Nguyễn Thị Lan H là ông Nguyễn Tấn T trình bày: Bà T và bà H thống nhất như phần trình bày của ông Nguyễn Tấn T.

[2] Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2020/DS-ST ngày 29 - 5- 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:

- Căn cứ Điều 34, Điều 37, Điều 38 khoản 1 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 263, Điều 264 Bộ luật Dân sự năm 1995

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 106 Luật đất đai năm 2013, khoản 5, Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai;Tuyên xử:

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị L yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định buộc ông Nguyễn Tấn T (con của ông T – TB, bà Q) trả lại nhà đất và những tài sản gắn liền trên đất hiện nay ông Nguyễn Tấn V đang quản lý sử dụng; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00253 ngày 01/10/2009 của UBND huyện P cấp cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00149 ngày 17/3/2010 của UBND huyện P cấp cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T; hủy Hợp đồng mua bán nhà ở và quyền sử dụng đất tại thửa đất số 53, tờ bản đồ số 88 tại thôn T Nam, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định giữa bên bán ông Nguyễn Tấn T, bà Nguyễn Thị Minh T và bên mua ông Nguyễn Tấn V.

Bà Lê Thị L phải chịu chi phí xem xét thẩm định, định giá là 6.000.000 đồng (bà L đã nộp xong).

Bà Lê Thị L thuộc trường hợp người cao tuổi nên được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.

[3] Kháng cáo: Ngày 05 – 6 – 2020 bà Lê Thị L kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2020/DS-ST ngày 29 - 5- 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định. Nêu lý do của việc kháng cáo là Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vì không triệu tập người làm chứng, chưa thu thập đầy đủ chứng cứ; đồng thời xét xử vụ án không khách quan, toàn diện.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại; nếu không hủy thì đề nghị sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung do thửa đất tranh chấp đã được nhà nước giao cho bên phía Bị đơn sử dụng từ năm 1975, đã được thực hiện qua các chính sách pháp luật về đất đai, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên nguyên đơn không có quyền đòi lại đất. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập đầy đủ chứng cứ như tiến hành xem xét thẩm định tại chổ, lập các thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như kháng cáo của nguyên đơn. Trong vụ án này ông Nguyễn Tấn V tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của ông TB và bà Trần Thị Kim Q; đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên ông V đã được tham gia tố tụng trong vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm với tư cách người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bị đơn nên ông V đã được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; tại phiên tòa phúc thẩm ông V cũng có mặt và không có ý kiến gì, thống nhất bản án sơ thẩm. Như vậy, cấp phúc thẩm chỉ cần điều chỉnh bổ sung thêm tư cách tham gia tố tụng đối với ông Nguyễn Tấn V.

[2] Về nội dung của kháng cáo:

Bà Lê Thị L và vợ chồng ông Nguyễn Tấn T (TB) bà Trần Thị Kim Q tranh chấp thửa đất số 53, tờ bản đồ số 88 có diện tích ghi trên giấy chứng nhận là 352,3m2 (thực tế sử dụng là 315,5m2) tọa lạc tại thôn T Nam, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định có giới cận: phía Đông giáp đường đi; phía Tây giáp quốc lộ 1A; phía Nam giáp thửa đất số 55 nhà bà Phan Nguyễn Trà My; phía Bắc giáp đường đi vào Trường học.

[2.1] Về nguồn gốc thửa đất và quá trình sử dụng đất xác định như sau: Theo hồ sơ lưu trữ tại Ủy ban nhân dân (UBND) thị trấn P, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện P và UBND huyện P cung cấp xác định nguồn gốc thửa đất số 53, tờ bản đồ số 88 có số thửa cũ là 84 tờ bản đồ số 11(bản đồ giải thửa 299) tại Sổ mục kê quyển số 03, đã được Sở địa chính ký duyệt ngày 09/12/1998, tên chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Tấn T.

Ngày 22/10/1975 vợ chồng bà Trần Thị Kim Q làm đơn xin đất xây dựng nhà ở và được chính quyền các cấp của xã Mỹ Q lúc bấy giờ xét duyệt đề nghị giao đất cụ thể, đã được UBND cách mạng xã Mỹ Q ký duyệt đồng ý ngày 28/10/1975 giao toàn bộ thửa đất (hiện nay được xác định là thửa số 53, tờ bản đồ số 88 tranh chấp nêu trên) để gia đình bà Q ông TB xây dựng nhà ở tại thửa đất này. Ông TB và bà Q xây dựng nhà ở ổn định liên tục, khi vợ chồng ông T (TB) bà Q chết thì những người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông T (TB) bà Q đã thỏa thuận cho vợ chồng ông T (sinh năm 1966), bà T đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến ngày 01/10/2009 UBND huyện P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00253 cho vợ chồng ông Nguyễn Tấn T, bà Nguyễn Thị Minh T; sau đó ngày 17/3/2010 được cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00149 trên cơ sở đã thu hồi Giấy chứng nhận cũ. Đến ngày 07/11/2012 vợ chồng ông Nguyễn Tấn T, bà Nguyễn Thị Minh T làm Hợp đồng mua bán nhà ở và quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Tấn V, được UBND huyện P chứng thực. Ngày 19/11/2012 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện P ký chỉnh lý biến động cho ông Nguyễn Tấn V. Do đó từ ngày 19/11/2012 cho đến nay ông Nguyễn Tấn V là chủ sử dụng đất và quản lý toàn bộ tài sản gắn liền với đất.

[2.2] Về phía gia đình bà Lê Thị L, từ năm 1975 đã đi khỏi địa phương huyện P, vào tỉnh Đồng Nai, sau giải phóng thì về lại nhà ở thôn A, xã M, huyện P định cư từ đó cho đến nay. Bà L không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, không có căn cứ để xác định gia đình bà L đã ở trên thửa đất số 53 nêu trên vào trước năm 1975. Nguyên đơn chỉ có tài liệu là Biên bản làm việc ngày 07/6/2000 giữa Tòa án tỉnh Bình Định và UBND huyện P và cho rằng đến thời điểm này vẫn còn ngôi nhà cũ của nguyên đơn xây trước năm 1975. Tuy nhiên nội dung của Biên bản này chỉ xác nhận thời điểm giao đất cho vợ chồng ông TB làm nhà (năm 1975) thì trên đất có 01 cái nhà tạm dạng lô cốt chống đạn. Nội dung này phù hợp với trình bày của Bị đơn cho rằng đây là cái trạm gác của Cảnh sát chế độ cũ và gia đình đã tháo dỡ toàn bộ khi xây dựng nhà ở vào năm 1975.

[2.3] Như vậy, thửa đất 53 tranh chấp nêu trên đã được Nhà nước giao đất cho bên phía gia đình Bị đơn làm nhà ở từ năm 1975, sau đó sử dụng liên tục ổn định và đã đăng ký kê khai quyền sử dụng đất đầy đủ theo các chính sách pháp luật về đất đai qua các thời kỳ và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Bản án sơ thẩm đã xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị L (người đại diện theo ủy quyền ông Võ Văn D) là có căn cứ, đúng pháp luật; về chi phí thẩm định định giá và án phí sơ thẩm được giải quyết hợp lý ; tại phiên tòa phúc thẩm không có tài liệu chứng cứ gì mới làm thay đổi nội dung vụ án, nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; HĐXX phúc thẩm giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

[3] Bà Lê Thị L là người cao tuổi nên được miễn án phí phúc thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị L, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2020/DS-ST ngày 29 - 5- 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

2. Áp dụng khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 26 của Luật Đất đai 2013; Điều 263, Điều 690 của Bộ luật Dân sự năm 1995;

Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị L gồm các yêu cầu cụ thể:

- Yêu cầu buộc ông Nguyễn Tấn T (con của ông T (TB) và bà Q) trả lại nhà đất và những tài sản gắn liền trên đất mà hiện nay ông Nguyễn Tấn V đang quản lý sử dụng;

- Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00253 ngày 01/10/2009 của UBND huyện P cấp cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T;

- Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00149 ngày 17/3/2010 của UBND huyện P cấp cho ông Nguyễn Tấn T và bà Nguyễn Thị Minh T;

- Yêu cầu hủy Hợp đồng mua bán nhà ở và quyền sử dụng đất tại thửa đất số 53, tờ bản đồ số 88 tại thôn T Nam, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Định, giữa bên bán là vợ chồng ông Nguyễn Tấn T, bà Nguyễn Thị Minh T và bên mua là ông Nguyễn Tấn V.

3. Về chi phí xem xét thẩm định tại chổ, định giá tài sản tại Tòa án cấp sơ thẩm là 6.000.000 đồng, bà L đã nộp xong.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Bà Lê Thị L được miễn nộp. Hoàn trả cho bà L 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số 0003613 ngày 12/03/2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Định.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

739
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2020/DS-PT ngày 05/11/2020 về tranh chấp đòi lại tài sản, yêu cầy hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hủy hợp đồng mua bán nhà ở, quyền sử dụng đất

Số hiệu:17/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:05/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về