Bản án 17/2019/HSST ngày 29/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 17/2019/HSST NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 01 năm 2019, tại Phòng xử án Toà án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh – Số 416/2 đường Dương Quảng Hàm, Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 250/2018/HSST ngày 19/12/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2019/QĐST-HS ngày 09/01/2019, đối với bị cáo:

Phạm Công H; sinh năm 1990, tại tỉnh T; nơi cư trú: ấp V, xã T, huyện G, tỉnh T; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn S và bà Trần Thị B; vợ: Hồ Thanh Kim T, sinh năm 1993, có 01 con sinh năm 2015;

-Tiền án: không;

-Tiền sự: ngày 09/3/2016 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc thời gian 21 tháng, chấp hành xong ngày 09/9/2017;

-Nhân thân: Ngày 29/11/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành hình phạt tù xong ngày 25/9/2012.

Bị bắt tạm giam ngày 24/10/2018 (có mặt tại phiên tòa).

-Bị hại:

Ông Nguyễn Hữu Đ (vắng mặt).

Địa chỉ: số 225/2/7 đường Phạm Văn Chiêu, Phường X, quận G, Thành phốH.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/Bà Nguyễn Lê Phương Th (vắng mặt).

Địa chỉ: số 109 đường Hà Huy Giáp, phường T, Quận X, Thành phố H.

2/ Từ Minh Kh (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh L.

3/ Nguyễn Thị Minh H (vắng mặt).

Địa chỉ: thôn Lương Cách, xã H, huyện N, tỉnh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Công H và anh Nguyễn Hữu Đ thuê chung phòng trọ tại địa chỉ: số 225/2/7 đường Phạm Văn Chiêu, Phường X, quận G, Thành phố H. Do phòng trọ không có chỗ để xe nên anh Đ thường để nhờ xe gắn máy hiệu Yamaha biểnsố 85V4-5317 ở tiệm Net “N” địa chỉ số 280B đường Phạm Văn Chiêu, PhườngX, quận G, Thành phố H, là nơi mà Hải và anh Đ thường xuyên đến chơi. Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 24/9/2018, khi thức dậy thấy anh Đ còn ngủ, H nảy sinh ý định trộm cắp xe máy của anh Đ, H lục túi quần anh Đ lấy giấy đăng ký xe rồi đi bộ ra tiệm Net dắt xe gắn máy biển số 85V4-5317 đi ra. Khi H lấy xe thì có nhân viên của tiệm Net nhìn thấy nhưng không hỏi vì quen mặt H và nghĩ H mượn xe của anh Đ như những lần trước. Lấy được xe, H dắt bộ đi đổ xăng, làm chìa khóa rồi chạy xe đến tiệm cầm đồ “L” địa chỉ số 109 đường Hà Huy Giáp, phường T, Quận X, Thành phố H cầm xe được 4.000.000 đồng tiêu xài hết.

Đến khoảng 16 giờ 00 ngày 24/9/2018, anh Đ phát hiện bị mất xe thì nhân viên tiệm Net cho biết H lấy xe lúc sáng, anh Đ gọi điện thoại cho H, H thừa nhận đã lấy xe của anh và nhiều lần hẹn trả xe nhưng không trả. Ngày18/10/2018, anh Đ trình báo Công an.

Khoảng 14 giờ 00 ngày 23/10/2018, anh Đ phát hiện H đi xe máy biển số 62N1-141.76 ở Công viên Gia Định nên anh Đ báo Công an Phường 9, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh bắt giữ H.

Tại Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Công H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 325/KL ngày 25/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Ước tính trị giá xe gắn máy Sirius do Công ty Yamaha Việt Nam sản xuất, biển số 85V4-5317 đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 24/9/2018 là 6.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 08/Ctr–VKS ngày 19/12/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Phạm Công H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Miễn phạt bổ sung cho bị cáo. Xử lý vật chứng theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa cho các bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

 [2]. Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Công H tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Việc truy tố, luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đủ cơ sở xác định bị cáo Phạm Công H phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

 [3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi muốn chiếm đoạt tài sản để tiêu xài cá nhân nên vẫn cố tình phạm tội. Do đó, thiết nghĩ cần phải có mức án thoả đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng giáo dục và phòng chống tội phạm nói chung.

 [4]. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

 [5]. Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5, Điều 173 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

 [6]. Đối với chị Nguyễn Lê Phương Th là chủ tiệm cầm đồ L khi nhận cầm xe do H mang đến, chị Th không biết xe do H trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chị Th là đúng theo qui định của pháp luật.

 [7]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Yamaha biển số 85V4-5317 và giấy đăng ký xe máy biển số 85V4-5317. Qua xác minh, xe do chị Nguyễn Thị Minh H, địa chỉ: thôn L, xã H, huyện N, tỉnh N đứng tên chủ sở hữu, chị H cho anh Nguyễn Hữu Đ mượn xe. Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe trên cho chị H là đúng theo quy định của pháp luật.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Yamaha biển số 62N1-141.76. Qua xác minh xe do anh Vũ Đức Đ là chủ sở hữu, anh Đ đã bán xe cho anh Từ Minh K, địa chỉ: ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh L. Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe trên cho anh K là đúng theo quy định của pháp luật.

- Đối với 01 điện thoại di động Nokia, màu đen đã bị vỡ màn hình là tài sản của bị cáo H, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo;

 [8]. Về trách nhiệm dân sự:

+Đối với bị hại, tại phiên tòa ông Nguyễn Hữu Đ vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện ông Đ đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xét.

+Đối với chị Nguyễn Lê Phương Th, tại phiên tòa chị Th vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện chị Th không yêu cầu bị cáo H trả lại số tiền 4.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử không xét.

 [9]. Đối với số tiền 4.000.000 đồng bị cáo H cầm xe có được là tiền thu lợi bất chính nên buộc bị cáo cáo nộp sung quỹ Nhà nước.

 [10]. Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

 [11]. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Công H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo: Phạm Công H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/10/2018.

- Áp dụng Điều 47; Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

+Trả lại cho bị cáo Phạm Công H 01 điện thoại di động Nokia, màu đen đã bị vỡ màn hình.

 (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 249/PNK ngày 26/10/2018 của Công an quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh).

+Buộc bị cáo Phạm Công H nộp 4.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước. Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HSST ngày 29/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:17/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về