Bản án 17/2017/HSST ngày 30/05/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 17/2017/HSST NGÀY 30/05/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 5 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 15/2017/HSST ngày 04 tháng 4 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn N  – sinh năm 1983; Tên gọi khác: Lê Văn Hùng Nơi ĐKNKTT: ấp TP, xã ĐH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở hiện nay: ấp TP, xã ĐH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau; Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không;

Trình độ học vấn: 4/12; Nghề nghiệp: Làm vuông;

Con của ông: Lê Văn B – sinh năm 1959;

Con của bà: Lâm Thị Nh – sinh năm 1960;

Anh, chị, em ruột: có 04 người, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1986. Bị cáo là người con thứ hai trong gia đình.

Vợ: Mai Thị B (đã bỏ nhà ra đi khoảng 9 năm)

Con: Lê Trúc Mai – 10 tuổi.

Tiền án: Có 01 tiền án – ngày 25/3/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Cái Nước xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 09/6/2015.

Khởi tố ngày 24/01/2017, bắt bị cáo tạm giam từ ngày 24/01/2017 đến nay.

 Bị hại: Lê Tuyết V – sinh năm 1967 (Vắng mặt)

Nơi cư trú: ấp Giá Ngự, xã ĐH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/. Anh Lƣ Chí B – sinh năm 1975 (Vắng mặt)

Cư trú tại: Khóm 4, thị trấn Đ D, huyện Đ D, tỉnh Cà Mau

2/. Anh Phạm Văn Ng – sinh năm 1997 (Vắng mặt)

Cư trú tại: ấp TP, xã ĐH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

NHẬN THẤY

Lê Văn N bị Viện kiểm sát nhân huyện Cái Nước truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 22-01-2017, Lê Văn N đi bộ đến nhà của Phạm Văn Ng ở cùng ấp để rủ Ng đi trộm điện thoại di động về bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, Ng đồng ý. N kêu Ng về nhà N lấy cây kiềm cộng lực mang theo để làm công cụ cắt khóa cửa. Khi đi N còn mang theo một lưỡi dao lam. N và Ng đi đến nhà bà Lê Tuyết V ở ấp Giá Ngự, xã ĐH, huyện Cái Nước. Khi đến nơi, Ng ở ngoài canh đường còn N dùng kiềm cộng lực cắt dây xích khóa cửa rồi mở cửa đi vào bên trong nhà, lúc này N phát hiện trong mùng vợ chồng bà V đang ngủ có 01 điện thoại di động để trên đầu giường nên N dùng lưỡi dao lam rọc mùng lấy điện thoại di động. Sau đó, N phát hiện trên tay bà V có 01 đeo lắc vàng 24k nên nảy sinh ý định chiếm đoạt, N dùng tay tháo lấy được chiếc lắc của bà V bỏ vào túi rồi đi ra ngoài gặp Ng, N nói với Ng là lấy được điện thoại di động và đưa cho Ng xem nhưng không có nói cho Ng biết là đã lấy trộm thêm chiếc lắc của bà V. Sau đó cả hai đi về nhà.

Đến sáng ngày 23-01-2017 N đi xe Hon da ôm (không biết tên, địa chỉ người lái xe, không nhớ biển số xe) đến tiệm vàng Mỹ Ngân ở thị trấn Đ D, huyện Đ D do anh Lư Chí B làm chủ, N đi vào một mình bán chiếc lắc vàng có trọng lượng 03 chỉ vàng 24K được 9.360.000 đồng (Chín triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng). Số tiền trên N đem về đưa cho Ng 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng) và nói với Ng do N giữ chiếc điện thoại của bà V để sử dụng nên N đưa cho Ng 50.000 đồng để xài nhưng thực tế chiếc điện thoại di động lấy trộm của bà V thì N đã ném bỏ trong đêm 22/01/2017 vì chiếc điện thoại bị hỏng. Số tiền bán vàng còn lại là 9.310.000 đồng  N đã sử dụng một mình vào việc tiêu xài cá nhân.

Tại kết luận định giá tài sản số 04/KL-HĐĐGTS ngày 16/02/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện Cái Nước, kết luận:

Chiếc lắc vàng 24k, trọng lượng 03 chỉ trị giá 10.080.000 đồng (Mười triệu không trăm tám mươi nghìn đồng).

Đối với điện thoại di động đã cũ, bà V không nhớ hiệu, điện thoại không thu hồi được nên không tiến hành định giá được.

Tại bản cáo trạng số: 16/KSĐT – KT ngày 04 tháng 4 năm 2017 VKSND huyện Cái Nước đã truy tố Lê Văn N  về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1Điều 138 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại và người tham gia tó tụng khác

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn N khai nhận: Khoảng 23 giờ ngày 22-01-2017 bị cáo đến rủ Phạm Văn Ng đi lấy trộm điện thoại di động về bán lấy tiền chia nhau tiêu

xài. Khi cả hai đi đến nhà bà Lê Tuyết V thì Ng đứng ở ngoài canh đường, bị cáo vào nhà lấy trộm tài sản. Bị cáo lấy được một chiếc điện thoại di động và chiếc lắc vàng 24k của bà V. Đến ngày 23/01/2017 bị cáo đem bán chiếc lắc vàng được 9.360.000 đồng là thực tế có xảy ra.

Chiếc lắc vàng có trọng lượng 03 chỉ vàng 24K mà bị cáo lấy trộm của bà V được định giá là 10.080.000 đồng (Mười triệu không trăm tám mươi nghìn đồng).

Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức B thường, có đủ N lực chịu trách nhiệm hình sự.

Từ những cơ sở nêu trên có đủ căn cứ xác định bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền hở hữu về tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Lẽ ra bị cáo phải biết chí thú làm ăn, tạo ra của cải vật chất để nuôi sống bản thân, gia đình và giúp ích cho xã hội. Trái lại, với bản tính lười lao động, thích hưởng thụ trên công sức lao động của người khác mà bất chấp pháp luật để phạm tội. Bị cáo đã phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

Hành vi của bị cáo không chỉ vi phạm pháp luật mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương; gây tâm lý lo âu cho người dân trong việc quản lý tài sản của mình. Qua đó cũng tạo nên sự bức xúc trong dư luận nhân dân và được chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm trong thời gian qua. Thực tế có những vụ án trộm cắp tài sản diễn ra và đã được xử lý kịp thời bằng những bản án thật Ng minh đúng với tính chất, mức độ phạm tội nhưng vẫn chưa làm lắng động những hành vi phạm tội. Tại phiên toà, hành vi của bị cáo cũng đủ để Hội đồng xét xử xem xét bằng một bản án Ng khắc, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

Xét bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 25-3-2014 bị Tòa án nhân dân huyện Cái Nước xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 09 - 6 - 2015 đến nay chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không tỏ ra ăn năn hối cải mà lại tiếp tục phạm tội trộm cắp tài sản và lần phạm tội này là tái phạm theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Tuy Nh, trong thời gian bị tạm giam, bị cáo cũng đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho phía bị hại và bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo.  Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, cân nhắc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Nước đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm b, p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn N từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Hội đồng xét xử sẽ xem xét đề nghị trên để đưa ra một mức án phù hợp tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo

Về xử lý vật chứng vụ án: 01 Sợi dây xích bị cắt đứt làm đôi, 01 đoạn dài 40 cm, 01 đoạn dài 20 cm. Hai đoạn dây xích này được gắn vào 01 ổ khóa màu đen hiệu Yefi, ổ khóa đang trong tình trạng khóa lại; 01 cái mùng lưới nền trắng có bông màu xanh bị rách 01 đường từ trên xuống dài 50 cm, điểm đầu cách nốc mùng 85 cm. Do đây là những tài sản của bị hại, bị hại không yêu cầu trả lại những tài sản nêu trên. Xét thấy những tài sản trên đã bị hư hỏng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với 01 vỏ lưỡi dao lam bằng giấy, màu vàng mà bị cáo đã bỏ lại tai hiện trường, xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với cây kiềm cộng lực là của bị cáo, sau khi gây án bị cáo đã bỏ mất, lưỡi dao lam và điện thoại di động thì ném xuống sông, chiếc lắc 3 chỉ vàng 24k sau khi mua vào chủ tiệm đã bán lại cho người khác. Tất cả tài sản trên không thu hồi được nên không đạt ra xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, bà Lâm Thị Nh là mẹ của bị cáo đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường cho phía bị hại với số tiền 9.900.000 đồng (Tương đương 03 chỉ vàng 24K). Bị hại không có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo. Bà Nh là mẹ ruột bị cáo, bà Nh bồi thường thay cho bị cáo số tiền trên và cũng không có yêu cầu bị cáo trả lại nên không đặt ra xem xét. Về sau, giữa bà Nh và bị cáo có tranh chấp về khoản tiền nêu trên thì khởi kiện thành vụ kiện dân sự khác.

Đối với chiếc điện thoại di động mà bị cáo đã lấy của bà V và ném bỏ xuống sông không thu hồi được, bà V không xác định được nhãn hiệu, giá trị và cũng không có yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét.

Đối với 02 tờ vé số, 01 giấy chứng minh nhân dân của bị cáo và số tiền 540.000 đồng (đây là tiền do phạm tội mà có nhưng gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại xong). Tài sản trên xét thấy không còn liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cái Nước đã trả lại cho bị cáo là phù hợp.

Anh Lư Chí B chủ tiệm vàng Mỹ Ngân khi mua vàng do bị cáo bán không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cái Nước không xem xét trách nhiệm hình sự là có cơ sở.

Đối với Phạm Văn Ng: Do bị cáo N chỉ rủ Ng trộm điện thoại di động bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, còn việc bị cáo một mình lấy trộm thêm chiếc lắc vàng của bà V thì Ng không biết và cũng không được chia tiền phần này. Chiếc điện thoại di động lấy trộm không thu hồi được nên không xác định được giá trị. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cái Nước không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự mà xử lý hành chính tại Quyết định 28/QĐ-VPHC, ngày 15–3-2017 của Công an huyện Cái Nước xử phạt hành chính đối với Ng là có cơ sở.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng:  khoản 1 Điều 138; điểm b, p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Áp dụng: Điều 76, 99 Bộ luật tố tụng hình sự;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn N 02 năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 24 tháng 01 năm 2017.

Tịch thu và tiêu hủy 01 Sợi dây xích bị cắt đứt làm đôi, 01 đoạn dài 40 cm, 01 đoạn dài 20 cm. Hai đoạn dây xích này được gắn vào 01 ổ khóa màu đen hiệu Yefi, ổ khóa đang trong tình trạng khóa lại; 01 cái mùng lưới nền trắng có bông màu xanh bị rách 01 đường từ trên xuống dài 50 cm, điểm đầu cách nốc mùng 85 cm; 01 vỏ lưỡi dao lam bằng giấy, màu vàng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 3 năm 2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước

Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng. Nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước khi án có hiệu lực pháp luật.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản bán trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2017/HSST ngày 30/05/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:17/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về