TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐĂK NÔNG
BẢN ÁN 17/2017/HNGĐ-ST NGÀY 20/10/2017 VỀ LY HÔN
Ngày 20 tháng 10 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đăk Song xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 89/2017/TLST-HNGĐ ngày 12/6/2017 về Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Mỹ L, sinh năm 1988. Có mặt
Nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1974. Có mặt
Nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 25/5/2017 và, trong quá trình làm việc cũng như tại phiên tòa nguyên đơn Trần Thị Mỹ Lệ trình bày: Chị Trần Thị Mỹ L kết hôn với anh Nguyễn Văn A vào ngày 28/01/2008, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tây Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Khi đăng ký kết hôn hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc, lừa dối. Quá trình chung sống chị L và anh A có 02 con chung là cháu Nguyễn Trần Quốc P, sinh ngày 04/4/2009 và cháu Nguyễn Trần Ngọc Nh, sinh ngày 26/9/2015. Đời sống hôn nhân giữa chị L và anh A có nhiều mâu thuẫn, có lối sống khác biệt nhau, có quan điểm khác nhau trong vấn đề kinh tế gia đình, chị L không thể hòa hợp được với anh A và gia đình anh A. Vợ chồng thường xuyên có xô xát, cãi vả, gia đình anh Anh thường xuyên đòi đánh và đuổi chị L đi, chị L và anh A đã sống ly thân được hơn 03 tháng nay. Hiện nay chị L không còn tình cảm gì với anh A nữa nên chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh A.
Trong biên bản lấy lời khai ngày 26/7/2017 và quá trình làm việc cũng như tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Văn Anh trình bày: Anh Nguyễn Văn A kết hôn với chị Trần Thị Mỹ L vào ngày 28/01/2008, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tây Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Khi đăng ký kết hôn hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc, lừa dối. Quá trình chung sống chị L và anh A có 02 con chung là cháu Nguyễn Trần Quốc P, sinh ngày 04/4/2009 và cháu Nguyễn Trần Ngọc Nh, sinh ngày 26/9/2015. Đời sống hôn nhân giữa chị L và anh A có một số mâu thuẫn về vấn đề kinh tế trong gia đình, nguyên nhân mâu thuẫn là do chị L và anh A không có cùng quan điểm trong việc phát triển kinh tế gia đình. Anh A cũng thừa nhận chị L đã bỏ về nhà mẹ ruột đến nay đã được hơn 3 tháng. Tuy nhiên, anh A nhận thấy vẫn còn tình cảm với chị L nên anh A không đồng ý ly hôn với chị L.
Quá trình xác minh tình trạng hôn nhân, đại diện UBND xã Trường Xuân, đại diện thôn 6, xã Trường Xuân cũng như hàng xóm láng giềng đều xác định giữa chị L và anh A có mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị L và anh A là do vấn đề kinh tế gia đình và hiện nay chị L và anh A đã ly thân, không còn chung sống với nhau nữa.
Tại phiên tòa hôm nay, các đương sự giữ nguyên quan điểm của mình, yêu cầu Hội đồng xét xử (HĐXX) giải quyết theo quy định pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của HĐXX là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với nội dung vụ án, đại diện VKS đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Ngày 28/01/2008 chị Trần Thị Mỹ L và anh Nguyễn Văn A kết hôn với nhau, việc kết hôn là hợp pháp. Ngày 25/5/2017 chị L có đơn yêu cầu ly hôn với anh A. Vì vậy, HĐXX nhận thấy quan hệ tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Nguyễn Văn A hiện đang cư trú tại Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông. Vì vậy Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là Tòa án nhân dân huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông theo điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.
[2] Về quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Mỹ L và anh Nguyễn Văn A, HĐXX nhận thấy: Chị Trần Thị Mỹ L và anh Nguyễn Văn A kết hôn với nhau vào ngày 28/01/2008, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tây Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định theo giấy chứng nhận kết hôn mà chị Trần Thị Mỹ L cung cấp cho Tòa án. Khi kết hôn cả hai bên đều tự nguyện, không bị ai ép buộc là lừa dối. Vào thời điểm kết hôn, cả chị L và anh A đều đã đủ tuổi kết hôn vì vậy quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh A là hợp pháp.
[3]. Về tình trạng hôn nhân, quá trình chung sống giữa chị L và anh A có nhiều mâu thuẫn, chị L và anh A có quan điểm khác nhau trong vấn đề kinh tế gia đình. Đời sống hôn nhân giữa chị L và anh A thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, không tìm được tiếng nói chung để xây dựng kinh tế gia đình, chị L không hòa hợp được với gia đình của anh A. Quá trình xác minh tình trạng hôn nhân, đại diện UBND xã Trường Xuân, đại diện thôn M, xã N cũng như hàng xóm láng giềng đều xác định giữa chị L và anh A có mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị L và anh A là do vấn đề kinh tế gia đình và hiện nay chị L và anh A đã ly thân, không còn chung sống với nhau nữa. Nhận thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh A là có thật, mâu thuẫn thường xuyên kéo dài và ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy HĐXX xét thấy cần chấp yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Mỹ L.
[4]. Về con chung, tài sản chung: Chị Trần Thị Mỹ L không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[5]. Về án phí Ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị Mỹ L phải chịu án phí Ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Mỹ L.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Mỹ L được ly hôn với anh Nguyễn Văn A (Chấm dứt quan hệ hôn nhận);
Về án phí: Chị Trần Thị Mỹ L phải chịu tiền án phí Dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Lệ đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003594 ngày 12 tháng 6 năm 2017 của Cơ quan Thi hành án Dân sự huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.
Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo toàn bộ bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 17/2017/HNGĐ-ST ngày 20/10/2017 về ly hôn
Số hiệu: | 17/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/10/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về