Bản án 171/2020/HS-ST ngày 18/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 171/2020/HS-ST NGÀY 18/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 18 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 160/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1006/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Quang D, sinh năm 1977 tại Hải Phòng. Đăng ký thường trú: Số cũ 87 tổ 43 (hiện nay là tổ 1) phường A, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Không nơi ở cố định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quang Đ và bà Tống Thị T; có vợ Trần Thị Thu H (đã ly hôn) và 01 con; tiền án: Tại Bản án số 83/2017/HSST ngày 10/8/2017 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 15 (mười lăm) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”; bị tạm giữ ngày 09/8/2020; bị tạm giam ngày 11/8/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 45 phút ngày 08/8/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Lê Chân và Công an phường Nghĩa Xá kiểm tra phòng 709 khách sạn Đ tại địa chỉ số 247 T, phường N, quận Lê Chân, Hải Phòng của 02 khách thuê là Trần Quang D và Vũ Thị Hương T, sinh năm 1998, nơi cư trú: Thôn D, xã L, huyện A, Hải Phòng. Quá trình kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện và thu giữ trên mặt bàn cạnh đầu giường 01 túi nilon màu trắng có mép màu đỏ kích thước 4x7cm bên trong có 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng có chứa tinh thể màu trắng, 01 viên nén màu hồng và các mảnh vỡ vụn màu hồng, nghi là ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của D 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, số tiền 500.000 đồng và thu giữ của T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và dẫn giải D, T cùng vật chứng về trụ sở Công an quận Lê Chân để giải quyết.

Tại kết luận giám định số 494/KLGĐ-MT ngày 11/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Tinh thể màu trắng thu giữ trong 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng được gấp gọn là ma túy, có khối lượng 0,06 gam, là loại Ketamine.Viên nén và các mảnh vỡ vụn viên nén thu giữ trong 01 túi nilon là ma túy, có khối lượng 0,34 gam, là loại MDMA.

Tại Cơ quan điều tra:

Trần Quang D khai: Khoảng 21 giờ ngày 08/8/2020, D đi một mình đến khu vực cổng Bệnh viện Việt Tiệp tại đường T, quận Lê Chân, Hải Phòng gặp và mua 02 viên thuốc lắc, 100.000 đồng Ketamine với tổng số tiền là 800.000 đồng của một nam giới không quen biết rồi cất giấu số ma túy trên vào túi quần đang mặc để sử dụng cho bản thân. Sau đó D đi đón bạn gái là Vũ Thị Hương T đến khách sạn Đ để ngủ. D là người đăng ký thuê phòng, trả tiền rồi cùng T lên phòng số 709. Khi lên phòng, T lên giường đắp chăn ngủ còn D bỏ túi ma túy ra, bẻ 01 viên thuốc lắc thành hai nửa, sử dụng một nửa còn một nửa D lại cất vào túi nilon để trên mặt bàn cạnh đầu giường. D vào nhà vệ sinh tắm rồi lên giường nằm nghe nhạc đến khoảng hơn 23 giờ thì có lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện và thu giữ gói ma túy của D. D không nói cho T biết việc D cất giữ ma túy, không rủ T sử dụng ma túy và không nhìn thấy T sử dụng ma túy. Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone và số tiền 500.000 đồng là tài sản riêng của D Vũ Thị Hương T khai: Khi lên phòng số 709 khách sạn Đ, T thấy mệt nên đắp chăn đi ngủ. Khi tỉnh dậy T thấy trên mặt bàn cạnh đầu giường có 01 túi nilon bên trong có 01 tờ tiền 5.000 đồng gói lại, 01 viên nén màu hồng, một nửa viên nén màu hồng và một số mảnh vụn màu hồng. Do đã từng sử dụng ma túy nên T biết đây là ma túy dạng thuốc lắc và lấy một nửa viên nén để sử dụng rồi để túi nilon về lại vị trí cũ và tiếp tục nằm ngủ, lúc này D vẫn đang ở trong nhà vệ sinh. Đến khoảng hơn 23 giờ ngày 08/8/2020 thì có lực lượng Công an kiểm tra. D không rủ T sử dụng ma túy. T không nhìn thấy D để túi nilon có chứa ma túy trên mặt bàn nhưng nghĩ là của D do không có ai khác trong phòng, không nhìn thấy D sử dụng ma túy và không nói cho D biết việc T sử dụng ma túy. Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung là tài sản riêng của Tú.

Bản Cáo trạng số 177/CT-VKS ngày 16/11/2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố Trần Quang D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận có hành vi tàng trữ trái phép ma túy, có khối lượng 0,34 gam, là loại MDMA và 0,06 gam Ketamine mục đích để sử dụng như đã khai tại cơ quan điều tra và cáo trạng nêu trên.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Trần Quang D và đề nghị HĐXX: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Quang D mức án từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 494B/2020/PC09 đựng số ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng được niêm phong trong phong bì thư số 494A/2020/PC09. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Iphone và số tiền 500.000 đồng.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ thể hiện: Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 08/8/2020 Trần Quang D có hành vi cất giữ trái phép ma túy có khối lượng 0,34 gam, là loại MDMA và 0,06 gam, là loại Ketamine mục đích để sử dụng cho bản thân và bị bắt quả tang tại khách sạn Đ số 247 T, N, Lê Chân, Hải Phòng nên đủ cơ sở kết luận Trần Quang D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo có 01 tiền án đã được xóa án tích, do vậy cần xử lý bắt cách ly khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[7] Đối với 01 phong bì niêm phong số 494B/2020/PC09 đựng số ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Đối với 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng được niêm phong trong phong bì số 494A/2020/PC09 xét đây là tiền dùng để gói ma túy nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

[9] Đối với 01 điện thoại Iphone thu giữ của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Đối với số tiền 500.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí, số tiền còn lại trả cho bị cáo.

[10] Đối với Vũ Thị Hương T, Công an quận Lê Chân đã ra Quyết định xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, HĐXX không xét.

[11] Đối với khách sạn Đ, Công an quận Lê Chân đã ra Quyết định xử lý hành chính về việc không thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý an ninh trật tự đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện, HĐXX không xét.

[12] Đối với nam giới bán ma túy cho D tại khu vực cổng Bệnh viện Việt Tiệp do chưa xác định được căn cước, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra, HĐXX không xét.

[13] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trần Quang D 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 09 tháng 8 năm 2020.

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 494B/2020/PC09 đựng số ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng được niêm phong trong phong bì số 494A/2020/PC09.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Iphone.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 500.000 đồng của bị cáo để đảm bảo thi hành án phần án phí, số tiền còn lại trả cho bị cáo.

(Theo Biên bản giao, nhận tài sản, vật chứng ngày 16 tháng 11 năm 2020 giữa Công an quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Quang D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 171/2020/HS-ST ngày 18/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:171/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về