TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 171/2019/DS-PT NGÀY 28/06/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 28/6/2019, tại trụ sở TAND Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 109/2019/TLPT-DS ngày 22 tháng 3 năm 2019 về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án sơ thẩm số 20/2018/DSST ngày 30/11/2018 của Tòa án nhân dân quận L, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 175/2019/QĐXX-PT ngày 30 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Ông Nguyễn Xuân P, sinh năm 1952. HKTT: TDP Đống 3, phường Cổ Nhuế 2, quận L, quận L, Thành phố Hà Nội. Cư trú tại: phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội. Có mặt.
2.Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1952. HKTT: TDP Đống 3, phường Cổ Nhuế 2, quận L, quận L, Thành phố Hà Nội. Cư trú tại: Số 60-64 Cổ Nhuế, TDP Đống 3, phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội.Có mặt.
Đại diện theo ủy quyền của bà Nhàn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1987. Cư trú tại: Xóm 11, phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội (Theo Giấy ủy quyền ngày 05/11/2018).Có mặt.
3.Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1.Ông Nguyễn Mạnh Đ, sinh năm 1959. Cư trú tại: Số 3 ngõ 56 Cổ Nhuế, TDP Đống 3, phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội.
3.2.Bà Nguyễn Thị Minh N, sinh năm 1961. Cư trú tại: Số 32 ngõ 546 Trần Cung, TDP Hoàng 12, phường Cổ Nhuế 1, quận L, Tp Hà Nội
3.3.Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1953. Cư trú tại: TDP Đống 1, phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội
3.4.Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1956. Cư trú tại: Số 52 Trần Xu n Soạn, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội
3.5.Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1958. Có mặt.
3.6.Anh Nguyễn Xuân L, sinh năm 1978.
3.7.Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1980;
3.8.Chị Đỗ Thị Minh H, sinh năm 1979
Bà Mậu, anh Lương, anh Hậu và chị Minh Hậu cùng cư trú tại: Số 1 ngõ 56 đường Cổ Nhuế, phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội.
3.9.Chị Đỗ Phương Thúy, sinh năm 1992. Cư trú tại: Số 326/18/24/2 đường Bờ T y Sông Nhuệ, phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội.
Đại diện theo ủy quyền của: Ông Đức; các bà: Nguyệt, Hồng, Thuận; các anh: Lượng, Hậu và các chị: Minh Hậu, Thúy là bà Mậu theo Giấy ủy quyền ngày 10/6/2019. Có mặt bà Mậu. Vắng mặt những người đã ủy quyền cho bà Mậu.
3.10.UBND phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội. Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Ngọc Quang - Chủ tịch UBND phường. Vắng mặt.
4.Người kháng cáo:
4.1.Ông Nguyễn Xuân P - Nguyên đơn. Có mặt.
4.2.Bà Nguyễn Thị Nhàn - Bị đơn. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm, vụ án có nội dung như sau:
1.Nguyên đơn ông Nguyễn Xuân P trình bày:
Ông bà nội của ông là cụ Nguyễn Xuân Nghị (chết năm 1983) và cụ Cao Thị Bé (chết năm 1984) có có 06 người con là: Nguyễn Văn Ngạn, Nguyễn Xuân Chư, Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Thị Thìn, Nguyễn Thị Lê. Cụ Nghị là chủ sử dụng thửa đất số 664, tờ địa bạ số 9, địa chỉ: Xã Cổ Nhuế, Hà Nội, diện tích 14,5 thước (tương đương 348m2) theo “Giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất” số 664, tờ địa bạ số 9, do Ủy ban hành chính Thành phố Hà Nội cấp ngày 04/02/1956 (Sau đây viết tắt là: GCNQSDRĐ số 664 năm 1956) cho chủ sử dụng là cụ Nguyễn Xuân Nghị. Tại trích lục bản đồ và sổ mục kê năm 1960 ghi chủ sử dụng đất là cụ Nghị, thuộc tờ bản đồ số 7, thửa đất số 170, đo thực tế là 350m2. Ngày 24/11/2974, cụ Nghị lập văn bản chia nhà đất (có sự chứng kiến của các con và những người trong nội tộc là: Cụ Văn Thị Bảy, cụ Nguyễn Xuân Huấn và ông Nguyễn Trần Thiết) cho cụ Ngạn được toàn quyền sử dụng thửa đất này. Sau đó thửa đất số 664, tờ địa bạ số 9 được xác định trong sổ mục kê và tờ bản đồ số 9 năm 1986 là thửa đất số 167 diện tích 272m2 đứng tên chủ sử dụng là cụ Ngạn. Cụ Ngạn (chết năm 1995) và vợ là cụ Hoa Thị Gái (chết năm 1985) có 05 người con là: Nguyễn Xuân P, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Thị Thuận, Nguyễn Mạnh Đức, Nguyễn Thị Minh Nguyệt. Ngày 01/3/1988, cụ Ngạn lập "Biên bản cuộc họp gia đình" chia nhà, đất cho ông Phúc được sử dụng 240m2 đất và ông Đức được sử dụng 96m2 đất (ông Đức đã được cấp “sổ đỏ”) tại địa chỉ trên. Quá trình sử dụng, ông Phúc đã đóng thuế đầy đủ.
Ngày 21/3/1991, ông Phúc xin phép x y dựng 01 gian nhà giáp mặt đường Cổ Nhuế để bán hàng và được UBND xã xác nhận diện tích, vị trí thửa đất phù hợp với bản đồ năm 1960 - 1986. Ngày 04/10/1996, ông đã x y dựng trên đất một kiot diện tích 9,8m2 đồng thời ông x y tường bao phần đất trống còn lại.
Theo ông Phúc: Gian kiot, khoảng đất trống 13,8m2 mà ông đã x y tường (Phía sau phần đất trống) thuộc diện tích đất cụ Ngạn cho ông. Vì theo GCNQSDRĐ số 664 năm 1956 và trích lục bản đồ năm 1960 thể hiện đất của cụ Nghị có vị trí: Phía T y giáp đường quốc lộ, không có đất của cụ Văn Thị Bảy (mẹ bà Nhàn). Ngày 24/11/1974, cụ Nghị chia đất cho các con thì cụ Bảy cũng chứng kiến và ký với tư cách người làm chứng vào biên bản; văn bản này ghi rõ: "... phía tây giáp tường nhà bà Bảy vòng đến tiếp giáp đường quốc lộ". Việc cụ Bảy có nhà tại thửa đất của cụ Nghị là do thời kỳ cải cách ruộng đất, cụ Nguyễn Xuân Luận là em ruột cụ Nghị, là chồng cụ Bảy và là bố bà Nhàn bị quy là địa chủ bị tịch thu hết ruộng đất nên cụ Nghị tạo điều kiện cho cụ Bảy ở tại nhà cấp 4 đã có sẵn ở mặt đường. Do đó, cụ Bảy không có tên trong sổ mục kê và tờ bản đồ năm 1960.
Ông xác nhận trước đ y, phần tiếp giáp với nhà cấp 4 mà cụ Nghị cho cụ Bảy ở có một gian bán mái của cụ Nghị gắn vào tường nhà cho cụ Bảy để các vật dụng linh tinh, sau đó phần bán mái này bị dỡ bỏ trở thành đất trống. Từ năm 1991, ông và gia đình bà Nhàn đã tranh chấp diện tích đất trống nhưng chưa được chính quyền giải quyết. Ngày 01/9/1998, ông và anh ruột bà Nhàn là ông Nguyễn Văn Thanh có thỏa thuận hòa giải nhưng không thực hiện được vì phía gia đình bà Nhàn tiếp tục có đơn khiếu kiện. Từ đó đến nay giữa hai bên vẫn không giải quyết được tranh chấp về phần đất trống.
Năm 2017, ông làm thủ tục cấp “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” (Sạu đây viết tắt là: GCNQSDĐ) nhưng bị bà Nhàn cản trở. UBND phường Cổ Nhuế 2 đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không kết quả. Nay ông khởi kiện đề nghị Tòa án công nhận diện tích kiot 9,8m2 và diện tích 13,8m2 đất trống trên có đoạn tường phía au ông đã x y dụng là của ông và bà Nhàn phải giao trả ông phần đất trống này. Phần đất trên có nhà cấp 4 mà cụ Nghị cho cụ Bảy, nay bà Nhàn được tiếp tục quản lý, sử dụng. Ông không chấp nhận yêu phản tố của bà Nhàn.
2.Bị đơn bà Nguyễn Thị Nhàn trình bày:
Năm 1940, cụ Bảy được cụ cố Nguyễn Văn Vận (cụ cố Vận là bố của cụ Nghị và cụ Luận) cho ở tại nhà cấp 4 như hiện nay bà đang ở), tại thửa đất giáp mặt đường Cổ Nhuế để bán hàng. Do cụ Luận bị đi cải tạo nên ngày 04/02/1956, cụ Bảy được Ủy ban hành chính Hà Nội cấp “Giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất”, số 694, tờ địa bạ số 9, diện tích đất ở 03 thước (Sau đây viết tắt là: GCNQSDRĐ số 694 năm 1956). Cụ Luận (chết năm 1970) và cụ Bảy (chết năm 2004) có 05 người con là: Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Minh T n, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Thị Hiên và bà Nhàn.
Riêng cụ Nghị được cụ cố Vận cho thửa đất ở xóm Đống 4. Năm 1950, cụ Nghị bị cháy nhà nên cụ Vận cho lên ở tạm tại nhà 05 gian cho đến khi x y dựng nhà xong thì quay về. Do đó, cụ Bảy và cụ Nghị sử dụng nguyên canh chung thửa đất. Biên bản họp gia đình năm 1974 là việc nội bộ của nhà ông Phúc, nhưng trong biên bản này cụ Nghị đã xác nhận gia đình bà sử dụng thửa đất giáp phía T y nhà cụ Nghị.
Ngày 20/10/1976, cụ Bảy chia cho bà sử dụng toàn bộ thửa đất này(04 anh chị em ruột của bà đã có nhà đất riêng). Theo trích lục bản đồ và sổ mục kê từ các năm 1986, 1994, 2000 của UBND phường Cổ Nhuế thì bà Nhàn đã đứng tên chủ sử dụng đất và đóng thuế sử dụng diện tích đất 72m2 từ năm 1993 đến năm 2017 cho nhà nước đầy đủ.
Năm 1991, gia đình bà có đơn xin xây và sửa lại bếp vị trí đất trống nhưng hai bên có tranh chấp nên bà không xây dựng được. Bà khẳng định năm 1998, lợi dụng bà đi vắng dài ngày, ông Phúc tự x y dựng kiot. Từ đó giữa hai bên thường xuyên xảy ra m u thuẫn. Ngày 01/9/1998, hai bên có đơn xin tự hòa giải có xác nhận của UBND xã Cổ Nhuế và Công an xã Cổ Nhuế, nội dung: Ông Phúc xác nhận diện tích đất kiot và diện tích đất trống thuộc quyền sử dụng của gia đình bà Nhàn. Nhưng sau đó nội dung thỏa thuận này không thực hiện được do giữa hai bên vẫn có căng thẳng, hiểu lầm lẫn nhau. Năm 2005, bà phá phần bếp bán mái (các bức ảnh chụp năm 1998 vẫn thể hiện nhà cấp 4 của cụ Bảy có 01 gian bếp bán mái và c y hồng xiêm) để x y nhà thì bị ông Phúc ngăn cản nên đất bị bỏ trống như hiện nay. Bà chưa được cấp GCNQSDĐ do có tranh chấp với gia đình ông Phúc. Năm 2017, UBND phường Cổ Nhuế 2 đã hòa giải nhiều lần nhưng bà không đồng ý vì diện tích đất sau khi thỏa thuận vẫn chưa đủ 72m2.
Bà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phúc và có yêu cầu phản tố đề nghị công nhận 13,8m2 đất trống là của bà và buộc ông Phúc phải trả lại bà diện tích đất trên kiot diện tích 9,8m2 (hiện ông Phúc đang quản lý) .
3.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1.Ông Đức và các bà: Nguyệt, Hồng, Thuận trình bày: Ông và các bà đồng ý với lời khai của ông Phúc. Cụ Bảy là vợ hai của cụ Luận. Cụ Luận là địa chủ, không có đất nên cụ Nghị cho cụ Bảy ở tại gian nhà của cụ Nghị x y sẵn ở mặt đường Cổ Nhuế. Quá trình ở, cụ Bảy có sửa chữa tạm thời khi dột, lợp bán mái để vật dụng linh tinh, tiếp đến là khoảng đất trống giáp ngõ Áp (nay là ngõ 56 đường Cổ Nhuế). Cụ Bảy không sử dụng phần đất trống này. Năm 1986, nhà nước tổ chức đo tham khảo thống kê đất nhưng gia đình không biết, không ký nhận gì việc đo đất nên không biết ranh giới và việc bà Nhàn có tên trong bản đồ và sổ mục kê. Năm 1991, ông Phúc x y dựng 01 gian kiot (giáp ngõ Áp). Các ông bà cùng có ý kiến diện tích đất tranh chấp là tài sản riêng của ông Phúc được cụ Ngạn chia thừa kế; các ông, bà không có quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan đến diện tích này và không có yêu cầu gì.
3.2.Bà Mậu; các anh: Hậu, Lượng và chị Minh Hậu trình bày: Bà và các anh, chị đồng ý với lời khai của ông Phúc. Diện tích đất tranh chấp là của riêng ông Phúc; bà và các con không có quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan đến diện tích đất đang tranh chấp.
3.3.Chị Đỗ Phương Thúy trình bày: Tháng 5/2018, chị thuê (không ký hợp đồng thuê) kiot giáp mặt đường Cổ Nhuế của ông Phúc để làm cửa hàng trang điểm. Quá trình sử dụng, chị không sửa chữa, cơi nới thêm nên không có quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan trong vụ án này.
3.4.Đại diện theo pháp luật UBND phường Cổ Nhuế 2 trình bày: Theo bản đồ hiện trạng lồng ranh giới bản đồ địa chính các thời kỳ 1960, 1986, 1994 do Công ty TNHH thương mại và dịch vụ khoa học kỹ thuật lập tháng 7/2018 thì hiện trạng ông Phúc và bà Nhàn sử dụng đất có một phần diện tích tăng ra đường Cổ Nhuế và ngõ 56 đường Cổ Nhuế. Do ông Phúc và bà Nhàn chưa được cấp GCNQSDĐ nên đề nghị Tòa án căn cứ hồ sơ quản lý đất đai của UBND phường , tài liệu các bên cung cấp để xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật.
Bản án dân sự sơ thẩm số 20/2018/DSST ngày 30/11/2018, Tòa án nhân dân quận L, Thành phố Hà Nội. Xử:
1.Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân P.
2.Bác yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Nhàn.
3.Bà Nguyễn Thị Nhàn được quyền sử dụng diện tích đất trống 11,6m2 (trên có 01 bức tường dài 3,47m nối từ kiot của bà Nhàn đến kiot của ông Phúc) thuộc thửa đất số 141, tờ bản đồ số 5, địa chỉ: TDP Đống 3, phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội, giới hạn bởi các điểm 1,2,9,8,1 có tứ cận như sau: Phía Tây giáp đường Cổ Nhuế, chiều dài là 3,56m; phía Nam giáp số nhà 58 đường Cổ Nhuế (kiot của ông Phúc), chiều dài là 3,07m; phía Bắc giáp số nhà 60 đường Cổ Nhuế (kiot của bà Nhàn), chiều dài là 3,53m; phía Đông giáp s n bê tông nhà ông Phúc, chiều dài là 3,47m
Bà Nhàn có nghĩa vụ thanh toán cho ông Phúc giá trị tài sản trên đất trống là bức tường dài 3,47m với số tiền là 4.661.827đồng. Bà Nhàn được sở hữu bức tường trên.
4.Ông Nguyễn Xuân P được quyền sử dụng diện tích đất trên có 01 gian nhà cấp 4 (kiot) có diện tích 6,8m2 thuộc thửa số 141, tờ bản đồ số 5, địa chỉ: TDP Đống 3, phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội, giới hạn bởi các điểm 2,3,12,10,9,2 có tứ cận như sau: Phía T y giáp đường Cổ Nhuế, chiều dài là 1,82m; phía Nam giáp ngõ 56 đường Cổ Nhuế, chiều dài là 3,12m; phía Bắc giáp ô đất trống của bà Nhàn, chiều dài là 3,31m; phía Đông giáp s n bê tông nhà ông Phúc, chiều dài là 2,46m. Ông Phúc tiếp tục tục sử dụng phần kiot lấn ngõ 56 và đường Cổ Nhuế (nằm ngoài ranh giới đất theo bản đồ năm 1994) có diện tích là 1,2m2 + 1,8m2, giới hạn bởi các điểm 9,10,12,4,5,6,9 như hiện trạng và có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với diện tích cơi nới trên.
- Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
*Không đồng ý với bản án sơ thẩm.
- Ngày 05/12/2018, ông Phúc có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Với nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông, bác yêu cầu phản tố của bà Nhàn.
- Ngày 13/12/2018, bà Nhàn có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Với nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận yêu phản tố của bà, bác yêu cầu khởi kiện của ông Phúc.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
+ Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo và trình bày: Toàn bộ diện tích đất mà hiện nay gia đình ông đang quản lý sử dụng, diện tích mà ông đang khởi kiện đòi lại đất (gồm diện tích đất trống, gian kiot) và đất trên có ngôi nhà bà Nhàn đang quản lý sử dụng đều có nguồn gốc của cụ Nghị theo GCNQSDRĐ số 664 năm 1956 và sổ mục kê, trích lục bản đồ năm 1960. Thời kỳ cải cách ruộng đất, cụ Nghị cho cụ Bảy ở trên ngôi nhà cấp 4 để bán hàng. Phần còn lại đã ph n chia cho bố ông. Nay ông vẫn nhất trí việc cụ Nghị đã cho cụ Bảy phần đất trên có ngôi nhà cấp 4 (hiện nay bà Nhàn đang quản ý sử dụng). Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông, buộc bà Nhàn trả lại ông phần đất trống mà ông đã x y tường; bác yêu cầu phản tố của bà Nhàn.
+ Bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Cấp sơ thẩm bác yêu cầu phản tố của bà Nhàn về việc đòi lại phần diện tích kiot mà ông Phúc đang sử dụng là không đúng vì phần đất có kiot này của bà. Vì nguồn gốc phần đất này nằm trong GCNQSDRĐ số 694, năm 1956 và theo trích lục bản đồ năm 1986 đứng tên chủ sử dụng là bà Nguyễn Thị Nhàn. Đề nghị chấp nhận yêu phản tố của bà, bác yêu cầu khởi kiện của ông Phúc.
+ Bà Mậu đại diện theo ủy quyền của ông Đức; các bà: Nguyệt, Hồng, Thuận; các anh: Lượng, Hậu và các chị: Thúy, Minh Hậu không trình bày bổ sung gì thêm. Xác định phần đất trống mà ông Phúc đã x y tường bao và gian kiot đang tranh chấp là tài sản thuộc quyền của cá nh n ông Phúc. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phúc.
+ UBND phường Cổ Nhuế, chị Phương Thúy không kháng cáo, vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm, không có văn bản hoặc ý kiến trình bày bổ sung gì thêm.
Các bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.
* Kiểm sát viên tham gia phiên toà phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý vụ án đến phiên toà xét xử vụ án.
Về nội dung: Cấp sơ thẩm chưa điều tra đo diện tích hiện hộ ông Phúc, ông Đức và bà Nhàn thực tế quản lý sử dụng là bao nhiêu nên chưa đủ căn cứ xác định ai thừa, ai thiếu nên đề nghị căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hủy bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]Về tố tụng:
Cấp sơ thẩm đã tu n thủ các quy định của bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Người kháng cáo nộp đơn kháng cáo và Biên lai nộp tạm ứng án phí phúc thẩm trong hạn luật định. Xác định người kháng cáo đã thực hiện quyền kháng cáo hợp lệ.
[2]Về nội dung:
2.1.Xét kháng cáo của ông Phúc:
Cấp sơ thẩm đã tiến hành thu thập được trích lục bản đồ các năm 1960, 1986, 1994 liên quan đến diện tích đất đang tranh chấp. Xác định được:
- Tờ bản đồ số 7 năm 1960, thửa đất số 170, diện tích 350m2, loại đất TU, chủ sử dụng là cụ Nguyễn Xuân Nghị, có vị trí tiếp giáp đường Cổ Nhuế và toàn bộ ngõ 56 Cổ Nhuế.
- "Bản ghi ý kiến của hội nghị gia đình về việc thu xếp nhà ở" ngày 24/11/1974 do cụ Nghị và cụ Bé lập, có sự làm chứng của cụ Bảy về việc họp gia đình để ph n chia tài sản là diện tích nhà, đất tại xóm 9, xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Thành phố Hà Nội (nay là TDP Đống 3, phường Cổ Nhuế 2, quận L, Thành phố Hà Nội) có nội dung: "...nguyên chúng tôi ở nhà của gia tiên để lại và được chia nguyên canh trong cải cách ruộng đất gồm có một nhà gạch 5 gian và 3 gian bếp gạch trên miếng đất diện tích 0 sào 14 thước, đông giáp nhà anh Liên, tây giáp tường nhà bà Bảy vòng đến tiếp giáp đường quốc lộ, nam giáp đường đi của xóm, bắc giáp nhà bác Dụ..." (BL31).
- Biên bản làm việc ngày 14/6/2017 (BL138) thể hiện toàn bộ diện tích đất tại tờ bản đồ số 55, thửa đất 141 theo bản đồ năm 1994 có nguồn gốc là của cụ Đồ Ba Tý (cụ nội của ông Phúc). Năm 1950 - 1955, cụ Đồ Ba Tý cho cụ Văn Thị Bảy (mẹ bà Nhàn) một phần diện tích sử dụng. Khoảng trước năm 1986, cụ Bảy không sử dụng và bán lại cho bà Nhàn. Diện tích bà Nhàn sử dụng gồm nhà 03 gian, tiếp đến ô đất gia đình cụ Tý sử dụng để chất c y ngô và nồi nước giải (tiếp giáp ngõ Áp - nay là ngõ 56 Cổ Nhuế).
- Lời khai của người làm chứng là hàng xóm của ông Phúc, bà Nhàn và lời khai của anh em ông Phúc khẳng định: Cụ Bảy, bà Nhàn đã sử dụng gian nhà cấp 4 mặt đường Cổ Nhuế từ thời kỳ cải cách ruộng đất năm 1956 cho đến nay.
Như vậy, xác định: Nguồn gốc phần đất trên có ngôi nhà cấp 4 mà cụ Bảy (sau này là bà Nhàn) sử dụng là một phần trong diện tích đất thuộc thửa đất số 170, tờ bản đồ số 7 năm 1960 diện tích 350m2 (sau này là thửa đất số 141, tờ bản đồ số 55 năm 1994), có vị trí diện tích đất nằm giáp mặt đường Cổ Nhuế do gia đình cụ Nghị cho sử dụng. Tuy nhiên việc cho ở không có giấy tờ và không xác định diện tích. Căn cứ "Bản ghi ý kiến của hội nghị gia đình về việc thu xếp nhà ở" ngày 24/11/1974; Biên bản làm việc ngày 14/6/2017 có đủ căn cứ xác định cụ Bảy (sau này là bà Nhàn) chỉ có quyền sử dụng ngôi nhà cấp 4, phần đất tiếp giáp còn lại là của cụ Nghị cho cụ Ngạn, cụ Ngạn đã chia cho ông Phúc và ông Đức. Việc ph n chia này đã được pháp luật thừa nhận bằng việc ông Đức đã được cấp GCNQSD đất cho đến nay không có ai khiếu nại gì.
Nay ông Phúc vẫn tiếp tục nhất trí cho bà Nhàn được quyền sử dụng diện tích đất trên có ngôi nhà cấp 4. Chỉ đòi lại phần đất tiếp giáp là phần “... tây giáp tường nhà bà Bảy vòng đến tiếp giáp đường quốc lộ..” được xác định là diện tích đất trống 11,6m2 (trên có 01 bức tường dài 3,47m do ông Phúc xây) và diện tích đất trên có gian kiot diện tích 9,8m2 là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Phúc. Tuy nhiên trong diện tích kiot 9,8m2 có 6,8 m2 thuộc đất của gia đình ông Phúc và 3m2 do ông Phúc cơi nới, nằm ngoài ranh giới đất theo bản đồ năm 1994 nên phần cơi nới này tạm giao cho ông Phúc, ông Phúc có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với diện tích cơi nới. Riêng diện tích đất giới hạn bởi các điểm 6,7,8,9,6 là chỉ giới giao thông hành lang đường Cổ Nhuế trước diện tích đất trống 11,6m2, ông Phúc được tạm sử dụng nhưng có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền
Việc ông Phúc cung cấp GCNQSDRĐ số 664 năm 1956, nhưng bị sửa chữa, không thể hiện hình thể, vị trí, tứ cận và tính liên quan của các thửa đất trong giấy này với thửa đất đang tranh chấp. Cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ tại UBND phường Cổ Nhuế 2 và Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố Hà Nội nhưng đều nhận được kết quả là không lưu giữ hồ sơ liên quan đến GCNQSDRĐ số 664 năm 1956 và không có tờ bản đồ năm 1956. Do đó không có căn cứ xác định diện tích đất đang tranh chấp có liên quan đến GCNQSDRĐ số 664 năm 1956.
2.2. Xét kháng cáo của bà Nhàn:
Bà Nhàn cho rằng: Cụ Bảy sau này là bà Nhàn được quyền sử dụng thửa đất số 168, tờ bản đồ số 9, diện tích 64m2, loại đất ở, theo sổ mục kê và tờ bản đồ năm 1986 và theo bản đồ năm 1994 là 72m2 và theo GCNQSDRĐ số 694 năm 1956.
Tuy nhiên bà cũng thừa nhận diện tích đất trên có nhà cấp 4 là được cụ nội của bà cho mẹ bà (cụ Bảy) từ trước cải cách ruộng đất, nhưng bà không có văn bản gì chứng minh về việc cho đất này.
Như nhận định tại mục 2.1 nêu trên, diện tích đất trên có ngôi nhà cấp 4 mà cụ Bảy (sau này là bà Nhàn) sử dụng là một phần trong diện tích đất thuộc thửa đất số 170 theo sổ mục kê và tờ bản đồ số 7 năm 1960 diện tích 350m2. Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 “Các giấy tờ khác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai có tên người sử dụng đất, bao gồm:
1. Sổ mục kê đất, sổ kiến điền lập trước ngày 18 tháng 12 năm 1980”.
Bà Nhàn kê khai đứng tên trong sổ mục kê, trích lục bản đồ năm 1986, 1994 và đóng thuế sử dụng đất từ năm 1993 đến năm 2017 thì chỉ có giá trị chứng minh về thời điểm bắt đầu sử dụng đất theo kê khai, kiểm kê của cơ quan Nhà nước, không thuộc trường hợp được xác định là chủ sử dụng đất. Có nghĩa là việc bà Nhàn được đứng tên là chủ sử dụng đất theo sổ mục kê, bản đồ năm 1986 năm 1994, 2000 và đóng thuế sử dụng đất không phải là căn cứ xác định bà Nhàn là chủ sử dụng đất theo khoản 1 Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 và Điểm g khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013.
Bà Nhàn cung cấp GCNQSDRĐ số 694 năm 1956, nhưng bị sửa chữa, không thể hiện hình thể, vị trí, tứ cận và tính liên quan của các thửa đất nêu trong giấy này với thửa đất đang tranh chấp. Cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ tại UBND phường Cổ Nhuế 2 và Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố Hà Nội nhưng đều nhận được kết quả là không lưu giữ hồ sơ liên quan đến GCNQSDRĐ số 694 năm 1956 và không có tờ bản đồ năm 1956. Do đó không có căn cứ xác định: Diện tích đất đang tranh chấp có liên quan đến GCNQSDRĐ số 694 năm 1956.
Căn cứ các nhận định trên: Đủ cơ sở xác định bà Nhàn chỉ được quyền sử dụng diện tích đất 43,6m2 trên có ngôi nhà cấp 4 do gia đình cụ Nghị cho ở và được ông Phúc và các thành viên trong gia đình cụ Nghị thừa nhận. Diện tích đất còn lại: diện tích đất trống 11,6m2 (trên có 01 bức tường dài 3,47m do ông Phúc x y) và diện tích đất 6,8 m2 trên có gian kiot diện tích 9,8m2 thuộc thửa đất số 170 theo sổ mục kê và tờ bản đồ số 7 năm 1960 của gia đình ông Phúc. Không có căn cứ chấp nhận yêu cầu phản tố và yêu cầu kháng cáo của bà Nhàn.
2.3.Xét quan điển của Kiểm sát viên về việc cần điều tra đo diện tích hiện hộ ông Phúc, ông Đức và bà Nhàn thực tế sử dụng là bao nhiêu:
“Bản đồ hiện trạng lồng ranh giới bản đồ địa chính các thời kỳ 1960,1986,1994” (BL 221) trong hồ sơ vụ án đã thể hiện: Ông Phúc hiện sử dụng 193,2m2 (Biên bản cuộc họp gia đình ngày 01/3/1988, ông Phúc được phân chia là 240m2); Hiện bà Nhàn đang sử dụng 43,6m2. Do bà Nhàn không phải là chủ sử dụng đất như nhận định tại mục 2.1; 2.2 nêu trên nên không có căn cứ để xác định diện tích đất bà Nhàn bị thiếu hoặc thừa.
2.3. Quan điểm của Hội đồng xét xử:
2.3.1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo và yêu cầu khởi kiện của ông Phúc.
2.3.2. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo và yêu cầu phản tố của bà Nhàn.
2.3.3 Quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị hủy bản án sơ thẩm không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
2.3.4. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Sửa bản án sơ thẩm theo hướng đã nhận định trên.
[3]Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án; Điều 2 Luật người cao tuổi; Điều 147, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 các đương sự không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm. Được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điều 147, Điều 148, khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 100, Điều 166, Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14; Luật người cao tuổi.
Xử:
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 20/2018/DSST ngày 30/11/2018, Tòa án nhân dânquận L. Cụ thể:
1.Chấp nhận yêu cầu kháng cáo và yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân P
1.1. Giao ông Nguyễn Xuân P được tiếp tục sử dụng diện tích đất 9,8m2 trên có gian kiot có 6,8m2 được giới hạn bởi các điểm: 2,3,12,4,5,6,9,2. Trong đó: Giao ông Nguyễn Xuân P được quyền sử dụng phần đất 6,8 m2, giới hạn bởi các điểm 2,3,12,10,9,2; Tạm giao tiếp tục sử dụng diện tích đất 3m2 (là phần cơi nới ra ngõ 56 và đường Cổ Nhuế) giới hạn bởi các điểm 9,10,12,4,5,6,9 và có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với diện tích cơi nới. (Sơ đồ kèm theo bản án).
1.2. Ông Nguyễn Xuân P được quyền sử dụng diện tích đất trống 11,6m2, trên có 01 bức tường x y gạch dài 3,47m (bức tường nối từ nhà cấp 4 của bà Nhàn đến kiot của ông Phúc), giới hạn bởi các điểm 1,2,9,8,1 (Sơ đồ kèm theo bản án).
Diện tích đất giới hạn bởi các điểm 6,7,8,9,6 phía trước gắn liền diện tích đất trống 11,6m2 thuộc hành lang giao thông đường Cổ Nhuế; ông Nguyễn Xuân P được tạm sử dụng nhưng phải có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền. (Sơ đồ kèm theo bản án).
2. Diện tích đất giao và tạm giao ông Nguyễn Xuân P được sử dụng tại: Thửa đất số 141, tờ bản đồ số 5; địa chỉ: Tổ d n phố Đống 3, phường Cổ Nhuế 2, Quận L, Thành phố Hà Nội.
Khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ông Nguyễn Xuân P được quyền chủ động đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất; quyền sở hữu tài sản theo quyết định của bản án và theo pháp luật.
3. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo và yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị Nhàn. Buộc bà Nguyễn Thị Nhàn phải giao trả ông Nguyễn Xuân P diện tích đất trống 11,6m2, trên có 01 bức tường x y gạch dài 3,47m (bức tường nối từ nhà cấp 4 của bà Nhàn đến kiot của ông Phúc), giới hạn bởi các điểm 1,2,9,8,1. (Sơ đồ kèm theo bản án).
4. Về án phí:
Các đương sự không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.
Hoàn trả ông Nguyễn Xuân P số tiền 11.900.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo các "Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án" số 05799 ngày 14/12/2017 và số 06450 ngày 11/12/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự quận L.
Hoàn trả bà Nguyễn Thị Nhàn số tiền 8.300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo các "Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án" số 06084 ngày 21/5/2018 và số 06462 ngày 14/12/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự quận L.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự , người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự ; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự .
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa tuyên án./.
Bản án 171/2019/DS-PT ngày 28/06/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 171/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về