Bản án 170/2020/DS-ST ngày 24/06/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 170/2020/DS-ST NGÀY 24/06/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

Ngày24 tháng 6 năm 2020 tại tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 39/2016/TLST-DS ngày 20 tháng 01 năm 2016 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2020/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 71/2020/QĐST-DS ngày 25 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Huỳnh Văn T Địa chỉ: ấp Đ, xã B, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

2. Bị đơn: Bà Phạm Thị Thanh N Địa chỉ: đường L, phường 13, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Lê Văn H (chết năm 2016) Địa chỉ: ấp M, xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng:

- Bà Nguyễn Thị L (vợ ông H, chết năm 1984) - Bà Lê Thị V, sinh năm 1955 (xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp M, xã X, huyện H, TP. Hồ Chí Minh

- Bà Lê Thị Vân E, sinh năm 1959 (xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp M, xã X, huyện H, TP. Hồ Chí Minh

- Bà Lê Thị Thu N, sinh năm 1972 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp 2, xã Đ, huyện H, TP. Hồ Chí Minh - Bà Lê Thị E, (chết năm 1983)

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng:

* Ông Phan Văn D (chồng bà E)

* Bà Phan Thị Kim T (con bà E) Cùng địa chỉ: ấp X, xã X, huyện Hóc Môn

- Ông Lê Văn H1, sinh năm 1953, chết năm 2018 Địa chỉ: ấp M, xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng:

- Bà Ngô Thị T, sinh năm 1957 (xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp M, xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh

- Ông Lê Hoàng T, sinh năm 1998 (xin vắng mặt)

- Ông Lê Hoàng Đ, sinh năm 1984 (xin vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp M, xã X, huyện H, TP. HCM

3.2/ Ông Hồ Văn T1, chết năm 2018 Địa chỉ: ấp M, xã T, huyện H, TP.HCM

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng:

- Bà Võ Thi C, sinh năm 1932 (vợ ông T1) Địa chỉ: đường H, khu phố 8, phường T, Quận 12, TP. HCM - Ông Võ Văn B (Hồ Văn H), (con ông T1) chết năm 2007

- Bà Võ Thị N (vợ ông H), xin vắng mặt - Bà Hồ Thị K (con ông H), xin vắng mặt

- Bà Hồ Thị Hoàng O (con ông H), xin vắng mặt Cùng địa chỉ: ấp M, xã T, huyện H, TP.HCM

3.3/ Ủy ban nhân dân huyện H Địa chỉ: Số 1 đường L, Thị trấn H, huyện H, TP. HCM Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Ưu T (xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 06 tháng 01 năm 2016, trong quátrình giải quyết vụ án và tại phiên tòa,ông Huỳnh Văn T - nguyên đơn trình bày:

Ông Hồ Văn T1 có quyền sử dụng đất với tổng diện tích 1.722m2 thuộc thửa 115, tờ bản đồ số 17, tọa lạc xã T (nay thuộc xã X), huyện H, theo Giấy chứng nhận QSDĐ số 1797 và quyết định số 248/QĐ-UB ngày 19/12/2001 của UBND huyện H.

Ông Lê Văn H có quyền sử dụng đất tổng diện tích 1.492m2 thuộc thửa 122, tờ bản đồ số 17 (TL 1992), tọa lạc tại xã T (nay xã X) huyện H, theo giấy chứng nhận QSDĐ số 73QSDĐ và Quyết định số 408/QĐ-UB ngày 13/10/1997 của UBND huyện H.

Ngày 12/7/2001 ông Lê Văn H chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Thanh N diện tích đất 1.492m2 thuộc thửa 122, tờ bản đồ số 17, theo hợp đồng mua đất ngày 12/7/2001.

Ngày 12/7/2001, ông Hồ Văn T1 chuyển nhượng cho bà N diện tích đất 1.722m2 thuộc thửa 115, tờ bản đồ số 17.

Do ông Lê Văn H và ông Hồ Văn T1 chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Thanh N hai phần đất nêu trên thì con của ông Lê Văn H có nhà đất phía sau hai phần đất này không có lối đi. Vì vậy, ngày 08/01/2002 ông Lê Văn H đã thỏa thuận với bà N giảm bớt diện tích chuyển nhượng để đổi một phần diện tích ngang 8 m, dài 22 m (phần đất do bà N nhận chuyển nhượng của ông Hồ Văn T1) thuộc thửa 115, tờ bản đồ số 17.

Ngày 20/6/2003, ông Lê Văn H chuyển nhượng cho ông một phần diện tích đất ngang 4 m, dài 22 m, thuộc thửa 115, tờ bản đồ số 17 trong tổng diện tích đất làm lối đi của con ông Lê Văn H. Phần đất này có một phía giáp ranh với đất của bà N, bà N đã xây tường rào để phân định ranh giới.

Năm 2015 ông có lập hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất ông đã chuyển nhượng thì phát hiện bà N đã được UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cả phần đất của ông chuyển nhượng.

Phần đất này ông đã thanh toán đầy đủ tiền vàđã nhận đất, hiện tại ông đang quản lý sử dụng.

Căn cứ giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông và ông H, căn cứ thực tế sử dụng đất ổn định từ năm 2003 đến nay, ông yêu cầu Tòa án xem xét công nhận phần đất diện tích 88 m2 thuộc thửa 115, tờ bản đồ 17 thuộc quyền sử dụng của ông và thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ số H00218 do UBND huyện H cấp cho bà N.

Bị đơn, bà Phạm Thị Thanh N: Bà N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và triệu tập lên làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng bà N đều vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp chứng cứ cho Tòa án, không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 28/8/2017, bà Lê Thị V (con ông H) – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H trình bày:

Bà là con của ông Lê Văn H (chết năm 2016) và bà Nguyễn Thị L (chết), ông H, bà L có tất cả 05 người con: Lê Thị V, Lê Văn H, Lê Thị Vân E, Lê Thị Thu N, Lê Thị E (chết, có chồng tên Phan Văn V con tên Phan Thị Kim T).

Lúc ông nội bà còn sống, ông nội bà có phân chia cho ông H một phần đất thửa số 122, tờ bản đồ số 17 và ông Hồ Văn T1 một phần đất thửa 115, tờ bản đồ số 17 nằm cạnh nhau.

Khoảng năm 2001 ông T1 có bán cho bà N phần đất thửa 115, tờ bản đồ số 17, diện tích 1.722 m, ông H cũng bán cho bà N một phần đất thửa 122, tờ bản đồ số 17, diện tích 1.492 m, do phía trong còn nhà của các anh em bà nên ba bà (ông H) đã hoán đổi với bà N chừa một phần đất thuộc thửa số 115 mà bà N đã mua của ông T1 để làm đường đi vô nhà phía trong, do đó, trừ phần diện tích hoán đổi với bà N ra thì ông H chỉ nhận tiền của bà N diện tích 1265m2 .

Đến năm 2003 ông H bán cho ông T phần đất mà ông H đã hoán đổi với bà N là phần đất thửa 115, diện tích ngang 4m dài 22m.

Giá sang nhượng cho ông T là 120.000.000 đồng, ông H đã nhận đủ tiền của ông T.

Nay ông T yêu cầu bà N trả lại phần đất có diện tích ngang 4m dài 20m2, thuộc thửa 155, tờ bản đồ số 17, bà không có ý kiến và yêu cầu gì, việc ông H mua bán đất với ông T đã xong và ông H cũng đã giao đất cho ông T quản lý, do đó, việc tranh chấp đất này để ông T và bà N quyết định.

Tại bản tự khai ngày 28/8/2017, bà Lê Thị Vân E (con ông H) – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H trình bày:

Bà Vân E cũng trình bày như bà Lê Thị V, bà Vân E không có ý kiến và yêu cầu gì trong vụ án này.

Tại bản tự khai ngày 28/8/2017, bà Lê Thị Thu N (con ông H) – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H trình bày:

Bà N cũng trình bày như bà Lê Thị V, bà N không cóý kiến và yêu cầu gì trong vụ án này.

Tại bản tự khai ngày 07/9/2017, ông Phan Văn D (chồng của bà Lê Thị E, chết) – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà E trình bày:

Việc tranh chấp giữa ông T và bà N, ông không có ý kiến và yêu cầu gì, mọi việc để các bên tranh chấp tự quyết định.

Tại bản tự khai ngày 28/8/2017, bà Phan Thị Kim T (con của bà Lê Thị E, chết) – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà E trình bày:

Việc tranh chấp giữa ông T và bà N bà không cóý kiến và yêu cầu gì, mọi việc để các bên tranh chấp tự quyết định.

Tại bản biên bản lấy lời khai ngày21/10/2019, bà Ngô Thị T (vợ ông H1)– người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H1 trình bày:

Bà có biết ba chồng của bà là ông Lê Văn H có bán đất cho ông T, việc nhận tiền, giao đất là do ông H thực hiện, bà chỉ biết chứ không tham gia. Nay trong vụ án này bà không có ý kiến và yêu cầu gì.

Tại bản tự khai ngày 21/10/2019, ông Lê Hoàng T (con ông H1) – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H trình bày:

Ông là con của ông H1, ông biết ông H1 tham gia tố tụng trong vụ án này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông H1 chết năm 2018. Nay ông là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Hoàng, ông không có ý kiến và yêu cầu gì trong vụ án này, mọi việc để các bên tranh chấp tự quyết định.

Tại bản tự khai ngày 21/10/2019, ông Lê Hoàng Đức (con ông H1) – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H1 trình bày:

Ông là con của ông H1, ông biết ông H1 tham gia tố tụng trong vụán này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông H1 chết năm 2018. Nay ông là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H1, ông không cóý kiến và yêu cầu gì trong vụán này, mọi việc để các bên tranh chấp tự quyết định.

Tại bản tự khai ngày 21/10/2019, bà Võ Thị N (vợ của ông Hồ Văn H1) – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H1 trình bày:

Ba chồng của bà là ông Hồ Văn T1, chết năm 2018, ông T có người con duy nhất là ông Hồ Văn H1 (Võ Văn B), ông H1 chết năm 2007, bà là vợ của ông H1, bà và ông H1 có 02 con chung là Hồ Thị K và Hồ Thị Hoàng O.

Việc chuyển nhượng đất giữa ông T1 và bà N và việc hoán đổi đất giữa bà N với ông H bà không biết. Do đó, bà không có ý kiến và yêu cầu gì trong vụ án này, mọi việc để các bên tranh chấp tự giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 21/10/2019, bà Hồ Thị K (con của ông Hồ Văn H1) – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H1 trình bày:

Việc chuyển nhượng đất giữa ông T1 và bà N và việc hoán đổi đất giữa bà N với ông H bà không biết. Do đó, bà không có ý kiến và yêu cầu gì trong vụ án này, mọi việc để các bên tranh chấp tự giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 21/10/2019, bà Hồ Thị Hoàng O (con của ông Hồ Văn H1) – người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông H1 trình bày:

đến.

Việc ông T và bà N kiện tranh chấp đất bà không biết và không có liên quan Tại bản tự khai ngày 12/4/2016, bà Đinh Thị L (vợ của ông Huỳnh Văn T) – người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Năm 2003, vợ chồng bà có chuyển nhượng của ông Lê Văn H một phần đất, có diện tích ngang 8 m, dài 22 m, sau khi làm thủ tục sang tên thì phần đất này đã được UBND huyện H cấp cho bà Phạm Thị Thanh N. Bà đồng ý việc ông T khởi kiện bà N, mọi việc tranh chấp để ông T giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 05/4/2018, ông Lê Ưu T, đại diện UBND huyện H – người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Ông đồng ý với nội dung bản khai của ông Nguyễn Di K ngày 27/9/2016, nội dung:

- Ông Lê Văn H được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận QSDĐ số 073/QSDĐ ngày 13/10/1997, trong đó có thửa đất 122, diện tích 1.492 m2, tờ bản đồ số 17 (tài liệu 02/CT-UB), xã T, nay thuộc xã X.

Năm 2001, ông Lê Văn H chuyển nhượng trọn thửa đất số 122, diện tích 1.492 m2 cho bà Phạm Thị Thanh N theo hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ có xác nhận của UBND xã T năm 2001.

Ngày 11/12/2001, bà N được UBND huyện H cấp mới giấy chứng nhận QSDĐ số 234/QSDĐ đối với thửa đất 122, diện tích 1.492 m2.

- Ông Hồ Văn T1 được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận QSDĐ số 1797/QSDĐ ngày 19/12/2001, đất thuộc thửa 115, diện tích 1.722 m2, tờ bản đồ số 17 (tài liệu 02/CT-UB), xã T, nay thuộc xã X.

Năm 2005, ông Hồ Văn T1 chuyển nhượng trọn thửa đất 115, diện tích 1.722m2 cho bà Phạm Thị Thanh N theo hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ có xác nhận của UBND xã X năm 2005.

Ngày 07/9/2005, bà Phạm Thị Thanh N được UBND huyện H cấp mới giấy chứng nhận QSDĐ số H00218 đối với thửa đất 115, diện tích 1.722 m2.

- Theo nội dung thông báo số 1509/TB-UBND ngày 27/11/2015 của UBND xã X, được biết: Sau khi chuyển nhượng cho bà Phạm Thị Thanh N vào năm 2001, đến năm 2002 ông Lê Văn H đã thỏa thuận lại với bà N giảm bớt diện tích chuyển nhượng, để lại phần đất diện tích 176 m2 (ngang 8 m, dài 22 m) làm lối đi vô đất phía trong nhà các con của ông H. Năm 2003, ông H lập giấy tay chuyển nhượng QSDĐ phần đất 88 m2 (ngang 4m x dài 22m) thuộc phần đất diện tích 176m2 cho ông Huỳnh Văn T. Ngoài thực địa thì phần đất giữa ông T và bà N có ranh giới ổn định nhưng đất thuộc giấy chứng nhận đã cấp cho bà N. Từ đó dẫn đến phát sinh tranh chấp.

Do đó, đại diện UBND huyện H đề nghị Tòa án làm rõ các thỏa thuận, chuyển nhượng đất bằng giấy tay giữa các bên với nhau nhằm giải quyết thỏa đáng vụ việc theo đúng quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn phát biểu: Việc tuân thủ theo pháp luật trong quá trình thụ lý, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa Thẩm phán, thư ký và thành viên Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không hòa giải đượcnên Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn quyết định đưa vụán ra xét xửđể Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp quyền sử dụng đất. Phần đất tranh chấp tọa lạc tại xã Xuân Thới Đông, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ vào khoản 9 điều 26, điểm a khoản 1 điều 35, điểm c khoản 1 điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn.

[2] Về sự vắng mặt của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bị đơn là bà Phạm Thị Thanh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn xin vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[3] Về nội dung tranh chấp: Tại phiên tòa, nguyên đơn yêu cầu Tòa án xem xét công nhận phần đất diện tích 81,2 m2 thuộc thửa 115-1, tờ bản đồ 17 (Tài liệu năm 1992), thửa mới 7-1, tờ bản đồ số 28 (tài liệu 2005) thuộc quyền sử dụng của ông T và thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ số H00218 do UBND huyện H cấp cho bà N. Hội đồng xét xử xét thấy:

- Đất tranh chấp là một phần đất có diện tích 81,2 m2 thuộc thửa 115-1, tờ bản đồ 17 (Tài liệu năm 1992), thửa mới 7-1, tờ bản đồ số 28 (tài liệu 2005).

- Về nguồn gốc đất: Phần đất này có nguồn gốc thuộc quyền sử dụng của ông Hồ Văn T1, vào ngày 04/8/2001 ông T1 được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận cho thửa đất số 115, tờ bản đồ số 17, diện tích 1.722 m2.

- Ngày 04/8/2005, ông T1 chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất 115 nêu trên cho bà Phạm Thị Thanh N. Ngày 07/9/2005, bà N được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận QSDĐ số H 00218 cho thửa 115, tờ bản đồ số 17, diện tích 1.722 m2.

- Năm 2001, ông Lê Văn H chuyển nhượng cho bà N trọn thửa đất 122, diện tích 1.492 m2. Bà N được UBND huyện H cấp mới giấy chứng nhận QSDĐ số 234/QSDĐ ngày 11/12/2001.

- Năm 2002 ông H đã thỏa thuận với bà N giảm bớt diện tích chuyển nhượng, để đổi một phần đất diện tích 176 m2 (ngang 8m, dài 22m, phần đất do bà N chuyển nhượng của ông Hồ Văn T1) làm lối đi vô đất phía trong nhà các con của ông Hai.

- Năm 2003, ông H lập giấy tay chuyển nhượng cho ông Huỳnh Văn T phần đất thuộc thửa 115-1, tờ bản đồ 17 (Tài liệu năm 1992), thửa mới 7-1, tờ bản đồ số 28 (tài liệu 2005), phần đất do bà N nhận chuyển nhượng của ông Hồ Văn T1. Phần đất này ông T đã thanh toán đầy đủ tiền và đã nhận đất, hiện tại ông T đang quản lý sử dụng.

Việc chuyển nhượng đất giữa ông H với ông T các bên có lập giấy bán đất ngày 20/6/2003 và các con của ông H cũng đã thừa nhận việc này. Ngoài ra có biên nhận về việc thanh toán tiền lô đất giữa bà N và ông Lê Văn H1 (con ông H), thì gia đình ông H chỉ nhận của bà N số tiền bán đất với diện tích 1.265 m2, nhưng sau đó bà N được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận với diện tích 1.492 m2, theo chứng nhận QSDĐ số 234/QSDĐ ngày 11/12/2001.

Căn cứ tờ trình số 32/TT-UBND ngày 22/7/2013 của UBND xã X thì ông Hồ Văn T1, ông Lê Văn H lập giấy tay sang nhượng đất cho bà Phạm Thị Thanh N. Việc chuyển nhượng – cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho bà Phạm Thị Thanh N chỉ chuyển nhượng trọn thửa đất theo giấy chứng nhận đã cấp cho ông H, ông T1, không có đo đạc thực tế. Hiện trạng thực tế khu đất bà N nhận chuyển nhượng đã có tường rào bao quanh khuôn viên, phần đất ông T không thuộc phần đất do bà N sử dụng mà do ông T đang trực tiếp sử dụng và kê khai đăng ký, đất thuộc thửa số 07, tờ bản đồ số 28 (theo tài liệu đo năm 2005).

Căn cứ báo cáo số 89/BC-UBND ngày 27/01/2015 của UBND xã X cho rằng việc cấp giấy chứng nhận cho bà Pham Thị Thanh N đã có thiếu sót trong quá trình kiểm tra thực trạng thực tế tại thời điểm chuyển nhượng, đăng bộ sang tên.

Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định thì phần đất tranh chấp và phần đất của bà N sử dụng tách biệt nhau, có tường rào riêng biệt. Như vậy bà N cũng đã sử dụng đúng phần đất mà bà N chuyển nhượng. Bà N không rào và sử phần đất mà bà N đã hoán đổi cho ông H.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công nhận phần đất có diện tích 81,2 m2, phần đất thuộc thửa 115-1, tờ bản đồ 17 (Tài liệu năm 1992), thửa mới 7-1, tờ bản đồ số 28 (tài liệu 2005), theo bản đồ hiện trạng vị trí – áp ranh số 103542/ĐĐBĐ-CNHM ngày 10/1/2017 của Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sử dụng của ông Huỳnh Văn T.

Kiến nghị UBND huyện H thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ số H 00218 đối với thửa đất số thuộc thửa 115-1, tờ bản đồ 17 (Tài liệu năm 1992), thửa mới 7-1, tờ bản đồ số 28 (tài liệu 2005) để điều chỉnh diện tích cho phù hợp.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[5] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 4.000.000 (bốn triệu) đồng, nguyên đơn đã nộp tạm ứng. Tại phiên tòa, nguyên đơn tự nguyện chịu phần chi phí này nên Hội đồng không xem xét.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 91, 147, 271, 273 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 166 và Điều 203 Luật đất đai;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định vể mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Văn T: Công nhận phần đất có diện tích 81,2 m2 thuộc thửa 115-1, tờ bản đồ 17 (Tài liệu năm 1992), thửa mới 7-1, tờ bản đồ số 28 (tài liệu 2005), theo bản đồ hiện trạng vị trí – áp ranh số 103542/ĐĐBĐ-CNHM ngày 10/1/2017 của Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sử dụng của ông Huỳnh Văn T. Ông T có trách nhiệm liên hệ với cơ quan có thẩm quyền đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.

Kiến nghị UBND huyện H thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ số H 00218 cấp ngày 07/9/2005 để điều chỉnh diện tích cho phù hợp thực tế sử dụng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền nêu trên cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2/Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị Thanh N chịu án phí 300.000 đồng.

Hoàn lại cho ông Huỳnh Văn T số tiền 18.000.000 đồng, theo biên lai thu số 0008366 ngày 20/01/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3/ Trong thời hạn mười lăm ngàykể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo để xin xét xử phúc thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản ản hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 170/2020/DS-ST ngày 24/06/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:170/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về