TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 170/2019/HS-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 159/2019/TLST/HSST ngày 10 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T; sinh năm: 1984; tại: Hà Tĩnh; hộ khẩu thường trú: xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; Chỗ ở: phường Đông Hòa, thị xã Dĩ An, tình Bình Dương; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn N; và bà: Phạm Thị K; có vợ 02 con, nhỏ nhất sinh năm 2014, lớn nhất sinh năm 2007; tiền án: ngày 07/11/2017 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong hình phạt ngày 25/01/2018; tiền sự: không. Bị cáo bị tạm bắt tạm giam từ ngày 02/4/2019. (có mặt).
- Bị hại: ông Nguyễn Hữu N - sinh năm: 1989.
Địa chỉ: phường Tam Bình, Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Phan Thị T - sinh năm: 1988
Địa chi: phường Tam Bình, Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người làm chứng: Ông Trần Trí H - sinh năm: 1969 (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
[1] Do cần tiền tiêu xài nên Nguyễn Văn T đã nảy sinh ý định tìm tài sản của người khác để lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài, Khoảng 05 giờ 25 phút ngày 02/4/2019 T mang theo một đoản phá khóa hình chữ T đón xe ôm đến Bệnh viện quận Thủ Đức địa chỉ số xxx phường Tam Phú, quận Thủ Đức. Khi đến bệnh viện T đứng ở quầy đăng ký số thứ tự để quan sát và phát hiện thấy 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen, biển số 68D1 - xxx, số máy 5C64-xxx, số khung 640BY - xxx của anh Nguyễn Hữu N dựng trong sân bệnh viện cách T khoảng 5m không có người trông coi. T liền đi đến ngồi lên xe và lấy đoản trong túi trái bên trong áo khoát cấm vào ổ khóa xe vặn từ trái sang phải khoản 2 đến 3 cái mở khóa xe. T đề máy nổ và đi được khoảng 2 m thì bị anh Nguyễn Minh T11 là bảo vệ Bệnh viện phát hiện chạy đến xô ngã xe. T bỏ xe chạy bộ được khoảng 10 m thì bị bắt giao cho công an phường Tam Phú, quận Thủ Đức lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Kết quả định giá tài sản trong tố tụng hình sự, 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen, biển số 68D1 - xxx, số máy 5C64-xxx, số khung 640BY - xxx có giá 10.000.000 đồng.
Vật chứng vụ án :
- 01 xe ô tô tải biển số 68D1 - xxx. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức đã trả lại tài sản cho bị hại.
- 01 đoản kim loại hình chữ T một đầu dẹp.
- 01 (một) USB bên trong có đoạn Video ghi lại hình ảnh Nguyễn Văn T lấy trộm xe mô tô biển số 68D1 - xxx vào ngày 02/4/2019.
[2] Bản Cáo trạng số 170/CT-VKSTĐ ngày 05/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cùng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng, phần dân sự người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì, vật chứng đề nghị giải quyết theo quy định.
Bị cáo Nguyễn Văn T không tranh luận hoặc bào chữa gì.
Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại anh Nguyễn Hữu N. Tài sản chiếm đoạt là 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen, biển số 68D1 - xxx, số máy 5C64-xxx, số khung 640BY - xxx theo bản kết luận định giá tài sản số 558/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 08/4/2019 có giá trị 10.000.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định, trừng trị tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Vì động cơ vụ lợi, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật. Bị cáo nhận thức rõ được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện, để thỏa mãn tiêu xài cá nhân. Xét về nhân thân, bị cáo có 01 tiền án: ngày 07/11/2017 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong hình phạt ngày 25/01/2018. Do đó lần phạm tội trong vụ án này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.
[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho người bị hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự và vật chứng vụ án: người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì. Hội đồng xét xử ghi nhận.
- 01 đoản kim loại hình chữ T một đầu dẹp là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng do đó tịch thu tiêu hủy.
- 01 (một) USB bên trong có đoạn Video ghi lại hình ảnh Nguyễn Văn T lấy trộm xe mô tô biển số 68D1 - xxx vào ngày 02/4/2019, tiếp tục lưu trữ trong hồ sơ vụ án.
[5] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/4/2019.
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự
+ Tịch thu tiêu hủy: 01 đoản hình chữ T một đầu dẹp.
+ Tiếp tục lưu trữ kèm theo hồ sơ vụ án 01 (một) USB bên trong có đoạn Video ghi lại hình ảnh Nguyễn Văn T lấy trộm mô tô biển số 68D1 - xxx vào ngày 02/4/2019.
(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2019/181 ngày 25/6/2019, của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức)
- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Văn T chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, thời gian kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Bản án 170/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 170/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về