TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 170/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 15 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 649/2018/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 9 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 212/2018/QĐXX-ST ngày 26 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 151/2018/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị H, sinh năm 1993; đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn 3, xã TH, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn V, xã N, huyện H, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Lê Văn T, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn 3, xã TH, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 27/10/2016, và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, Chị Đinh Thị H (nguyên đơn) khai:
Về hôn nhân: Chị Đinh Thị H và anh Lê Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 37 ngày 22 tháng 4 năm 2013 tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động, chăm sóc con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mặt khác, anh Lê Văn T nghiện ma túy, chị H và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T không thay đổi. Do mâu thuẫn, chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ăn ở, vợ chồng hiện đã sống ly thân nhau. Nay chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Văn T.
Về con chung: Chị Đinh Thị H khai: Chị và anh Lê Văn T có 01 con chung là Lê Ngọc H, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2013. Hiện chị H đang nuôi con. Trường hợp ly hôn, chị H có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hạnh khai chị và anh T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị H khai chị và anh Lê Văn T không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 27 tháng 9 năm 2018 anh Lê Văn T (bị đơn) khai:
Về con chung: Anh Lê Văn T khai anh và chị Đinh Thị H có 01 con chung Lê Ngọc H, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2013. Hiện chị H đang nuôi con. Trường hợp ly hôn anh T có nguyện vọng xin được nuôi con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Lê Văn T không có ý kiến, không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.Về hôn nhân: Anh Lê Văn T thừa nhận lời khai của chị Đinh Thị H về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn, nguyên nhân và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng như lời khai của chị Đinh Thị H là đúng. Nay chị H xin ly hôn anh T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh Lê Văn T đồng ý ly hôn.
Về tài sản chung: Anh Lê Văn T khai: Anh và chị Đinh Thị H không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau:
Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa nguyên đơn có đơn xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần hai không có lý do. Căn cứ Căn cứ khoản 1; khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn.
Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa Chị Đinh Thị H và Anh Lê Văn T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho Chị Đinh Thị H và Anh Lê Văn T được ly hôn. Về con chung: Chị Đinh Thị H và anh Lê Văn T có 01 con chung là Lê Ngọc H, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2013. Hiện chị H đang trực tiếp nuôi con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh hiện trạng nuôi con, khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên và căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử giao cho Chị Đinh Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Đinh Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Đinh Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Lê Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1; khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh T.
[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đinh Thị H và anh Lê Văn T được xác lập năm 2013 là hợp pháp. Tài liệu điều tra thể hiện: Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, lao động và chăm sóc con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mặt khác, anh Lê Văn T nghiện ma túy, chị H và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T không thay đổi. Do mâu thuẫn, chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ăn ở tại Thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, thành phố Ninh Bình vợ chồng hiện đã sống ly thân nhau từ năm 2016 đến nay. Chị H xin ly hôn anh T, Tòa án đã triệu tập anh T nhiều lần để trình bày ý kiến về việc chị H xin ly hôn anh T cũng đồng ý ly hôn chị H. Mặt khác, Tòa án triệu tập anh T lên tham gia các buổi hòa giải nhưng anh T đều vắng mặt không có lý Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị H và anh T được ly hôn.
[3] Về con chung: Chị Đinh Thị H và anh Lê Văn T có 01 con chung là Lê Ngọc H, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2013. Hiện chị H đang nuôi con. Khi ly hôn, chị H và anh T đều có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên việc giao con chung cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, từ khi sống ly thân đến nay, chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Chị H có việc làm và thu nhập ổn định để thực hiện việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Anh T đang nghiện ma túy, không có công ăn việc làm ổn định. Vì vậy, giao cho chị Đinh Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Ngọc H, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2013 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đinh Thị H không yêu cầuTòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.
[5] Về tài sản chung: Chị Đinh Thị H khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Đinh Thị H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đinh Thị H và anh Lê Văn T.
2. Về con chung: Giao cho chị Đinh Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lê Ngọc H, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2013 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Đinh Thị H phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí Tòa án số 0009409 ngày 18 tháng 9 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng, chị Đinh Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Đinh Thị H và anh Lê Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày chị H, anh T nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 170/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 170/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về