Bản án 169/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 169/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 14 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 155/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2021 về việc tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 192/2021/QĐ-ST ngày 05 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 211/QĐ-TA ngày 23 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1974; địa chỉ: ấp K.T 1, xã K.T, huyện C.M, tỉnh An Giang, (Có mặt).

Bị đơn: Bà Võ Kim D, sinh năm 1974; địa chỉ: Ấp K.T 2, xã K.T, huyện C.M, tỉnh An Giang, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện đề ngày 01/3/2021, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Văn T trình bày:

- Về hôn nhân: anh và chị Võ Kim D tìm hiểu và tiến tới hôn nhân vào năm 1995, có t chức lễ cưới, vợ chồng không có đăng ký kết hôn theo quy định; cả hai chung sống hạnh phúc được 26 năm đến năm 2020 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, t nh tình không hợp, thường xuyên cãi vã, vợ chồng không còn sống chung, ly thân từ thời điểm đó đến nay, anh chuyển về nhà cha mẹ ruột sinh sống, không còn sống cùng nhà với chị D. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẩn không thể hàn gắn nên anh xin ly hôn với chị Võ Kim D;

- Về con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Trung K (đã thành niên), Nguyễn Trung V, sinh năm 2007 đang sống chung với chị D, do chị D chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, anh T đồng ý để chị D tiếp tục nuôi cháu V, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về quan hệ tài sản chung: tự th a thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

- Về quan hệ nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp:

- Bản sao Giấy khai sinh con chung Nguyễn Trung V, sinh năm 2007;

- Tờ tự khai và đơn khởi kiện ngày của Nguyễn Văn T ngày 01/3/2021;

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp hòa giải để động viên các bên có thể giải quyết các bất đồng quan điểm, hàn gắn đoàn tụ với nhau nhưng tại phiên hòa giải ngày 19/3/2021 anh T vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu xin được ly hôn phiên hòa giải không thành; Ý kiến của chị D tại phiên hòa giải ngày 19/3/2021, không đồng ý với yêu cầu ly hôn của anh T do vẫn còn tình cảm, yêu thương anh T; anh T, chị D đều xác định vợ chồng tiến đến hôn nhân vào năm 1995 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định; anh, chị sống hạnh phúc 26 năm đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẩn; Vợ chồng đều xác định từ thời điểm mâu thuẩn không còn sống chung đến nay, anh T về nhà cha mẹ ruột sinh sống, cả hai thống nhất để cháu V cho chị D tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, không ý kiến về cấp dưỡng nuôi các con chung. Các bên cùng có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải lần hai.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với chị D; chị D vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Các bên không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang: phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và giải quyết vụ án như sau:

- Về thủ tục tố tụng, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn Võ Kim Duyên tuy được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

+ Về hôn nhân: anh Nguyễn Văn T và chị Võ Kim D tìm hiểu, tiến tới hôn nhân vào năm 1995, không có đăng ký kết hôn theo quy định; cả hai sống chung hạnh phúc được 26 năm đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, t nh tình không hợp, thường xuyên cãi vã, vợ chồng không còn sống chung, ly thân từ thời điểm đó đến nay; Do đó, xác định là hôn nhân giữa anh T, chị D là không hợp pháp, không được pháp luật thừa nhận, bảo vệ; nên căn cứ Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình, không công nhận anh T, chị D là vợ chồng.

+ Về con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Trung K (đã thành niên), Nguyễn Trung V, sinh ngày 29/3/2007 đang sống chung với chị D, do chị D chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, anh T, chị D thống nhất để chị tiếp tục nuôi cháu V, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, việc giao con chưa thành niên cho vợ hay chồng nuôi cần xem xét đến điều kiện phát triển của con chưa thành niên và nguyện vọng của cháu theo quy định của pháp luật. Cháu Nguyễn Trung V đang sống với chị D vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, nguyện vọng của cháu sau khi cha mẹ ly hôn sống cùng với chị D; anh T, chị D thống nhất để chị D tiếp tục nuôi cháu V nên cần n định cuộc sống của cháu, tiếp tục giao cháu cho chị D chăm sóc, nuôi dưỡng. Các đương sự không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không đề cập giải quyết.

+ Về tài sản và nợ chung: không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 14, 81, 82, 83 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

- Không công nhận anh Nguyễn Văn T và chị Võ Kim D là vợ chồng;

- Giao chị Võ Kim D được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Trung V, sinh ngày 29/3/2007 đến tuổi trưởng thành. Anh Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp: nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn được xác định là quan hệ tranh chấp về“Ly hôn, nuôi con chung” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: bị đơn Võ Kim D, sinh năm 1974, nơi cư trú tại xã K.T, huyện C.M, tỉnh An Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện C.M, tỉnh An Giang.

[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các thông báo, giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử, các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật cho các bên đương sự. Tại phiên tòa lần thứ nhất được mở vào ngày 23/4/2021, bị đơn vắng mặt không rõ lý do thuộc trường hợp hoãn phiên tòa.

Phiên tòa được mở lại lần thứ hai ngày 14/5/2021, Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Về tính hợp pháp: anh Nguyễn Văn T và chị Võ Kim D tìm hiểu, tiến tới hôn nhân vào năm 1995, không có đăng ký kết hôn theo quy định; cả hai sống chung hạnh phúc được 26 năm đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, t nh tình không hợp, thường xuyên cãi vã, vợ chồng không còn sống chung, ly thân từ thời điểm đó đến nay; Do đó, xác định là hôn nhân giữa anh T, chị D là không hợp pháp, không được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.

[2.2] Về tình trạng hôn nhân:

Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng giữa anh T, chị D hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, mối quan hệ vợ chồng trở nên căng thẳng, không còn sống chung từ đó đến nay, kể từ thời điểm ly thân anh T về nhà cha mẹ ruột sinh sống, không còn sống chung nhà với chị D, vợ chồng không dành sự quan tâm yêu thương lần nhau mà thay vào đó là dùng những lời lẽ lớn tiếng, xúc phạm, thể hiện mâu thuẩn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không còn hạnh phúc, không còn sự quan tâm, chia sẻ, yêu thương lần nhau. Nguyên nhân là do vợ chồng không tin tưởng nhau trong tình cảm, thiếu trách nhiệm trong cuộc sống gia đình, thường xuyên xảy ra mâu thuẩn, bất đồng trong cuộc sống.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập đến các phiên hòa giải để động viên các bên hàn gắn tình cảm, kết nối để cùng chung sống với nhau nhưng tại phiên hòa giải ngày 19/3/2021, anh T vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu xin được ly hôn; Ý kiến của chị D không đồng ý với yêu cầu ly hôn của anh T do vẫn còn tình cảm, yêu thương anh T; anh T, chị D đều xác định vợ chồng tiến đến hôn nhân vào năm 1995 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định; anh, chị sống hạnh phúc 26 năm đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẩn; Vợ chồng đều xác định từ thời điểm mâu thuẩn không còn sống chung đến nay, anh T về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Điều đó, chứng t hôn nhân giữa anh Nguyễn Văn T với chị Võ Kim D không hợp pháp, không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vì vậy cần áp dụng Điều 14 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, không công nhận anh Nguyễn Văn T với chị Võ Kim D là vợ chồng.

[3] Về con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Trung K (đã thành niên), Nguyễn Trung V, sinh ngày 29/3/2007 đang sống chung với chị D, do chị D chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, anh T, chị D thống nhất để chị D tiếp tục nuôi cháu V, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Căn cứ giao con cho bên vợ hoặc bên chồng nuôi dưỡng cần xem xét đánh giá về các yếu tố tạo điều kiện phát triển của con chưa thành niên và nguyện vọng của cháu theo quy định của pháp luật. Cháu Nguyễn Trung V đang sống với chị D vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, nguyện vọng của cháu sau khi cha mẹ ly hôn sống cùng với chị D. Mặt khác, anh Trung, chị Duyên thống nhất để chị D tiếp tục nuôi cháu Vĩnh. Do đó, cần n định cuộc sống của cháu, tiếp tục giao cháu V cho chị D chăm sóc, nuôi dưỡng. Các đương sự không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án ph và quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn T phải chịu án ph dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ được Hội đồng xét xử xém xét, chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 273; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 9, 14, 15, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án ph và lệ ph Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn T. Không công nhận anh Nguyễn Văn T và chị Võ Kim D là vợ chồng 2. Về con chung: giao con chung Nguyễn Trung V, sinh ngày 29/3/2007 cho chị Võ Kim D được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Không bên nào được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

Vì lợi ch của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn T phải chịu 300.000 đồng án ph hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ từ số tiền tạm ứng án ph anh T đã nộp theo biên lai thu số 0006123 ngày 01/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; anh Nguyễn Văn T đã nộp xong.

5. Quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Võ Kim D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 169/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:169/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về