TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 169/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 13 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 242/2021/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 287/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 292/2021/QĐST – HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Hằng, sinh năm 1995.
Địa chỉ: Số 418/22 khóm Bình Đức 5, phường Bình Đức 5, thành phố Long Xuyên, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
2. Bị đơn: Ông Võ Thanh Huynh, sinh năm 1990.
Địa chỉ: Tổ 6 ấp Mỹ Hiệp, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (Bà Hằng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Huynh vắng mặt lần thứ hai)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 02/3/2021 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Hằng trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Hằng và ông Võ Thanh Huynh chung sống với nhau năm 2014, có đăng ký kết hôn ngày 04/6/2014 tại UBND xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Hôn nhân tự nguyện lần thứ 1 của cả hai. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống đến tháng 02/2017 thì ly thân. Nguyên nhân chính do ông Huynh luôn kiểm soát tài chính chi tiêu trong nhà, không lo lắng cho vợ con. Từ ngày bà Hằng đem con về nhà mẹ ruột, ông Huynh không đến thăm con, không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Hằng yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Huynh.
- Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Thị Kim Hằng và ông Võ Thanh Huynh có 01 (một) con chung tên Võ Cao Kỳ Duyên, sinh ngày 10/12/2014. Sau khi ly hôn, bà Hằng yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu ông Huynh cấp dưỡng nuôi con.
- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có * Bị đơn ông Võ Thanh Huynh không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến qua yêu cầu ly hôn của bà Hằng và vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.
* Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:
Bà Hằng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt lý do phải đi làm ăn xa, điều kiện đi lại khó khăn nên không về dự tòa được. Ông Huynh vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Bà Hằng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt lý do phải đi làm ăn xa, điều kiện đi lại khó khăn nên không về dự tòa được. Ông Huynh không có ý kiến trình bày và vắng mặt trong quá trình tố tụng; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Hằng và ông Huynh là đúng theo qui định tại khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Kim Hằng đối với ông Võ Thanh Huynh.
Về con chung: Do con chung của bà Hằng và ông Huynh là cháu Võ Cao Kỳ Duyên, sinh ngày 10/12/2014 hiện nay đang sống với mẹ. Bà Hằng có yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, ông Huynh không có ý kiến về con chung. Để đảm bảo ổn định về tinh thần, đảm bảo về quyền lợi về mọi mặt cho cháu Duyên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của bà Hằng.
Về chi phí cấp dưỡng nuôi con: Do bà Hằng không có yêu cầu ông Huynh cấp dưỡng nuôi các con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà Hằng trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại Phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị Kim Hằng và ông Võ Thanh Huynh là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết.
[1.2] Sau khi nhận được quyết định hoãn phiên tòa, bà Hằng có đơn nộp cho Tòa án với nội dung đề nghị xét xử vắng mặt do phải đi làm ăn xa, đi lại khó khăn nên không về dự Tòa được. Căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà Hằng.
[1.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết công khai các văn bản tố tụng cho ông Võ Thanh Huynh theo qui định tại Điều 177 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông Huynh.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Hằng và ông Võ Thanh Huynh chung sống với nhau năm 2014, có đăng ký kết hôn ngày 04/6/2014 tại UBND xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Hôn nhân tự nguyện lần thứ 1 của cả hai. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống đến tháng 02/2017 thì ly thân. Nguyên nhân chính do ông Huynh luôn kiểm soát tài chính chi tiêu trong nhà, không lo lắng cho vợ con. Từ ngày bà Hằng đem con về nhà mẹ ruột, ông Huynh không đến thăm con, không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Hằng yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Huynh.
Phía bị đơn được Tòa án nhiều lần niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi cư trú của ông Huynh. Tuy nhiên, ông Huynh vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình qua yêu cầu ly hôn của bà Hằng và không đến tham gia hòa giải. Như vậy, ông Huynh đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của bị đơn được quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự và đồng nghĩa với việc ông không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân của mình.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng động viên bà Hằng và tạo thêm thời gian để vợ chồng ông bà có cơ hội để hàn gắn tình cảm. Tuy nhiên, bà Hằng vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn vì từ khi vợ chồng ly thân đến nay ông Huynh không đến thăm nom con chung, không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó, có thể nhận thấy tình cảm của bà Hằng dành cho chồng không còn, tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân của ông bà đã trầm trọng. Xét thấy, mục đích hôn nhân giữa bà Hằng và ông Huynh không đạt được, nếu tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà Hằng được ly hôn với ông Huynh.
[2.2] Về con chung: Bà Hằng và ông Huynh có 01 (một) con chung Võ Cao Kỳ Duyên, sinh ngày 10/12/2014. Lời khai của bà Hằng phù hợp với bản sao giấy khai sinh số 48 ngày 19/02/2021 do UBND xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên cấp. Xét thấy, thời gian qua cháu Duyên được bà Hằng trực tiếp nuôi dưỡng và để ổn định đời sống cũng như tinh thần cho cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được nuôi con của nguyên đơn.
Về cấp dưỡng nuôi con, đây là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, do bà Hằng không yêu cầu ông Huynh phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Bà Hằng và gia đình phải tạo điều kiện thuận lợi cho ông Huynh được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.
[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà Hằng không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Do bị đơn ông Huynh cũng không có ý kiến về việc phân chia tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này, các bên phát sinh tranh chấp thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
[3] Về án phí: Bà Hằng phải nộp án phí Hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 179; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 238, Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim Hằng. Bà Nguyễn Thị Kim Hằng được ly hôn với ông Võ Thanh Huynh.
2. Về con chung: Bà Hằng và ông Huynh có 01 (một) con chung tên Võ Cao Kỳ Duyên, sinh ngày 10/12/2014. Bà Hằng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Ông Huynh không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Hằng không có yêu cầu. Bà Hằng cùng các thành viên trong gia đình của mình phải tạo điều kiện cho ông Huynh được thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét.
4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim Hằng phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình Án phí được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005653 ngày 12/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, bà Hằng đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 169/2021/HNGĐ-ST ngày 13/07/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 169/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về