Bản án 169/2019/HS-ST ngày 24/12/2019 tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 169/2019/HS-ST NGÀY 24/12/2019 TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 

Ngày 24 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 168/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Anh S (tên gọi khác: không), sinh năm: 1977; Nơi  ĐKHKTT: Số nhà 44, đường H, Phố P, phường Ph, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Nơi ở hiện nay: Thôn P, xã N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Ngọc L (đã chết) và bà: Phạm Thị L (đã chết); vợ: Bùi Thị Th; và có 3con; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/10/2019 cho  đến nay (có mặt).

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn Ư; sinh năm: 1973; Trú tại: Thôn Xóm N, xã Y,  huyện Yên M, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

- Ngưi làm chứng: Ông Tạ Quang S (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nhau sau: Nguyễn Anh S là thợ thi công lắp đạt điện nước ở công trình xây dựng nhà anh Đào Hồng Q, ở khu đô thị mới thuộc phố P, phường N, thành phố Ninh Bình. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 17/10/2019 Nguyễn Anh S đến  công trình xây dựng và đi kiểm tra khu vệ sinh ở các tầng để lắp đặt ống nước, khi đi lên sân thượng tầng 3, S phát hiện thấy có 01 chiếc điện thoại di động OPPO A9 của anh Nguyễn Văn Ư, sinh năm 1973, Trú tại: Thôn Xóm N, xã Y, huyện Yên M, tỉnh Ninh Bình, là công nhân xây dựng để trên bờ tường lan can bên ngoài gần mái hiên, còn anh Ư đi xuống tầng 2 lấy xi măng, quan sát thấy không có ai ở trên sân thượng nên S nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại và đi đến vị trí để điện thoại lấy chiếc điện thoại cầm ở tay phải tắt nguồn rồi đi xuống nhà vệ sinh ở tầng hai giấu ở ô thoáng rồi dùng 03 mảnh gạch vỡ đặt lên trên. Đến khoảng 8 giờ cùng ngày anh Ư phát hiện bị mất điện thoại hỏi S thì S nói không biết, nên anh Ư trình báo Cơ quan Công an, Công an đã triệu tập Nguyễn Anh S để làm việc, quá trình làm việc S đã khai nhận lấy chiếc điện thoại OPPOA9 của anh Ư. Cơ quan Công an đã thu giữ được chiếc điện thoại trên ở vị trí ô thoáng nhà vệ sinh tầng hai nhà anh Q.

Tại bản kết luận định giá số 76/KL-HĐ ngày 22/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Ninh Bình kết luận “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A9 có trị giá là 5.592.000đồng”. (Năm triệu năm trăm chín mươi hai nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số 170/CT- VKS ngày 27 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố bị cáo Nguyễn Anh S ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1, Điều  173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng, không thay đổi bổ sung gì. Căn cứ tính chất mức độ phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh S phạm tội Trộm cắp tài sản; Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2  Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt: Bị cáo Nguyễn Anh S từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án ngày 24/12/2019. Giao bị cáo Nguyễn Anh S cho UBND xã N, thành phố Ninh Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị có có trách nhiệm phải phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan CSĐT Công an đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Ư 01 điện thoại di động nhãn hiệu OppoA9, anh Ư đã nhận lại tài sản trên và không có yêu cầu đề nghị gì bồi thường dân sự, nên trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Anh S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố là đúng, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như tang vật chứng của vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 8 giờ ngày 17/10/2019 tại công trình xây dựng nhà anh Đào Hồng Q ỏ khu đô thị mới thuộc phố P, phường N, thành phố Ninh Bình. Nguyễn Anh S đã có hành vi lén lút, lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A9 của anh Nguyễn Văn Ư trị giá 5.592.000đồng (Năm triệu, năm trăm chín mươi hai nghìn đồng). Hành vi của bị cáo Nguyễn Anh S đã phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự .

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh, trật tự trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực, hành vi chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi trộm cắp là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện, chứng tỏ bị cáo bất chấp coi thường pháp luật. Để đảm bảo trật tự an toàn xã hội cũng như có tác dụng giáo dục bị cáo thì việc truy tố, đưa ra xét xử buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết. Hội đồng xét xử thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo trong vụ án:

Về tình tiết tăng nặng: không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại; bị cáo có mẹ đẻ là người có công với nhà nước được tặng thưởng huân huy chương; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn ốm đau bệnh tật. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự.

[5] Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, cam kết chấp hành tốt pháp luật, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách, đồng thời giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi thường trú để giám sát, giáo dục là phù hợp với khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự;

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, ốm đau bệnh tật, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPOA9 là của anh Nguyễn Văn Ư. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình đã thu hồi trả lại cho anh Nguyễn Văn Ư đã nhận lại tài sản trên và không có yêu cầu đề nghị gì về trách nhiệm dân sự, nên phần trách nhiệm dân sự đã được giải quyết xong.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Anh S phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo mức án phí quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Anh S 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời  gian thử thách 18 (Mười tám) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án ngày  24/12/2019. Giao bị cáo Nguyễn Anh S cho UBND xã N, thành phố Ninh Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị có có trách nhiệm phải phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát bị cáo. Trong thời gian thử thách nếu bị cáo Nguyễn Anh S cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Nguyễn Anh S phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Đã được giải quyết xong nên không xem xét giải  quyết.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Anh S phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 24/12/2019; Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự: “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 169/2019/HS-ST ngày 24/12/2019 tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:169/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về