Bản án 168/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 168/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 179/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 170/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 121năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Sùng Bác Th, sinh ngày 17/6/2003; Tên gọi khác: Sùng Bát Th; Nơi cư trú: thôn L, xã Ph, huyện B, tỉnh Lào Cai. Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Con ông Sùng A C, sinh năm 1974 và bà Giàng Thị Ch (Giàng Thị D), sinh năm 1973; Vợ, con: Chưa có; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện tại ngoại. (Có mặt tại phiên toà).

- Người giám hộ: Ông Sùng A C – sinh năm 1974 (vắng mặt) Bà Giàng Thị Ch (Giàng Thị D) – sinh năm 1973 (vắng mặt) Đều ủy quyền cho Anh Sùng A S, sinh năm 1993 (có mặt) Đều địa chỉ: thôn L, xã Ph, huyện B, tỉnh Lào Cai

- Bị hại: chị Hoàng Thị T, sinh năm 1994 (đã chết). Địa chỉ: Phố 1, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

 Đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Ông Hoàng Văn M – sinh năm 1960 (Có mặt) Địa chỉ: Thôn Kh, xã Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn 2. Anh Mã Văn B – sinh năm 1993 ( có mặt) Địa chỉ: Phố 1, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.

- Người làm chứng:

1. Anh Giàng Seo L, sinh năm 2003 (Vắng mặt). Địa chỉ: Bản N, xã L, huyện S, tỉnh Lào Cai

2. Anh Giàng Seo S, Sinh năm 2000 (Vắng mặt). Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 28 tháng 6 năm 2020, Sùng Bác Th, sinh ngày 17 tháng 6 năm 2003, trú tại: thôn L, xã Ph, huyện B, tỉnh Lào Cai điều khiển xe máy biển kiểm soát 24HB- 083.66 (dung tích 49cm3) đi từ phòng trọ của mình ở xã N, huyện Y đi chơi khi đi đến khu vực chợ M, thị trấn N, huyện V thì gặp anh Giàng Seo L, sinh năm 2003, trú tại: N, xã L (Nay là xã L), huyện S, tỉnh Lào Cai và anh Giàng Seo S, sinh năm 2000, trú tại: thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai, anh L, anh S rủ Th đến phòng trọ của hai anh ở tổ dân phố H, thị trấn N, huyện V, tỉnh Bắc Giang chơi. Sau đó Th đến phòng trọ của anh S và anh L chơi và ăn uống tại đó đến khoảng 19 giờ cùng ngày thì anh S và anh L bảo Th chở hai anh sang phòng trọ của Th ở xã N, huyện Y, tỉnh Bắc Giang chơi, Th đồng ý. Th điều khiển xe máy biển kiểm soát 24HB- 083.66 chở sau lần lượt là anh S và anh L đi từ H, thị trấn N, huyện V qua cầu vượt Đình Trám đến cổng A2, khu công nghiệp Vân Trung thì rẽ vào rồi đi thẳng về phía khu công nghiệp Vân Trung 2 để về phòng trọ của Th. Khi Th điều khiển xe máy đi đến ngã tư đường giao cắt giữa cổng A2 khu công nghiệp Vân Trung đi khu Công nghiệp Vân Trung 2 với Cổng A1 khu công nghiệp Vân Trung đi công ty Newwing thì Th quan sát thấy ở đầu đường phía bên trái theo chiều đi của Th có xe máy điện do chị Hoàng Thị T, sinh năm 1994, trú tại phố 1, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn đang đi vào khu vực ngã tư. Lúc này Th vẫn điều khiển xe máy đi bình thường, khi Th đi đến khu vực giữa ngã tư thì xe máy điện của chị T cũng đi đến phía trước đầu xe của Th. Do khoảng cách gần nên đầu xe máy do Th điều khiển đâm vào chỗ để chân bên phải xe máy điện do chị T điều khiển. Hậu quả, hai phương tiện đổ văng rê trên mặt đường, chị Hoàng Thị T bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Quân y 110 tỉnh Bắc Ninh, sau đó được chuyển ra Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức tiếp tục điều trị đến ngày 01/7/2020 chị T tử vong.

Sau khi tiếp nhận thông tin, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nại và trưng cầu giám định. Kết quả như sau:

1. Kết quả khám nghiệm hiện trường: ( Phải, trái hiện trường được tính theo chiều hướng từ công A2 khu công nghiệp Vân Trung đi khu công nghiệp Vân Trung 2, xác định mép phải đường nhựa làm chuẩn).

- Đoạn đường xảy ra tai nạn giao thông là ngã tư giao nhau giữa đường nội bộ từ cổng A2 đi khu công nghiệp Vân Trung 2 và đường nội bộ từ cổng A1 đi công ty Newwing. Mặt đường được trải nhựa phẳng rộng 14,70m, góc giao nhau được bó vỉa vòng cung, đầu các lối rẽ rộng 45,0m. Bốn đầu ngã tư có vạch sơn trắng cho người đi bộ sang đường, xung quanh là các công ty, đất thuộc khu Công nghiệp.

- (1) Là vết trượt xước trên mặt đường nhựa có kích thước (5,35 x 0,01)m, chiều hướng từ cổng A2 đi khu công nghiệp Vân Trung 2, dạng ngắt quãng, điểm đầu cách mép phải đường nhựa 4,45m và cách mép phải đường từ cổng A1 đi công ty Newwing là 8,0m, điểm cuối nằm dưới vị trí đầu chân chống bên trái xe máy điện và cách mép phải đường nhựa là 2,45m.

- (2) Là xe máy điện màu đỏ-đen, không có biển kiểm soát, xe đổ nghiêng bên trái trên mặt đường nhựa tại vị trí tương ứng điểm cuối vết trượt xước (1), đầu xe hướng khu công nghiệp Vân Trung 2, đuôi xe hướng cổng A2, trục bánh trước cách mép phải đường nhựa 2,55m, trục bánh sau cách mép phải đường nhựa 2,30m.

- (3) Là vết trượt xước trên mặt đường nhựa kích thước (10,60 x 0,02)m, chiều hướng từ cổng A2 đi khu công nghiệp Vân Trung 2, dạng ngắt quãng, điểm đầu cách mép phải đường nhựa 3,47m và cách điểm đầu vết trượt xước (1) là 1,97m về hướng khu công nghiệp Vân Trung 2, điểm cuối nằm dưới vị trí đầu để chân trước bên trái xe máy 24HB- 083.66 ở phía ngoài bên phải, mép phải đường nhựa và cách mép phải đường nhựa 0,80m.

- (4) Là xe máy 24HB- 083.66, xe đổ nghiêng bên trái trên mặt đường nhựa tại vị trí tương ứng điểm cuối vết trượt xước (3), đầu xe hướng cổng A2, đuôi xe hướng khu Công nghiệp Vân Trung 2, trục bánh trước cách mép phải đường nhựa 1,40m và cách trục bánh trước xe máy điện là 7,10m về hướng khu công nghiệp Vân Trung 2, trục bánh sau cách mép phải đường nhựa 0,30m.

 - (5) Là dấu vết máu trên mặt đường nhựa, tại vị trí bên trái đầu xe máy điện (2), có kích thước (0,70 x 0,60)m, tâm cách mép phải đường nhựa 4,10m và cách trục bánh trước xe máy điện (2) là 1,70m.

+ Khoảng cách 16,60m từ trục bánh sau xe máy 24HB- 083.66 đến chân cột điện số 26 - 475, E7.17 được xác định là điểm mốc của hiện trường vụ tai nạn.

Ngoài ra không phát hiện gì khác. Thu giữ xe máy biển kiểm soát 24HB- 083.66; xe máy điện

2. Kết quả khám nghiệm phương tiện có liên quan đến tai nạn.

* Xe máy 24HB- 083.66, màu sơn Xanh-Trắng- Đen:

- Cần gương chiếu hậu bên trái bị tỳ nén, đứt gãy.

- Mặt ngoài ốp nhựa đầu xe để lại vết mài sát mòn nhựa kích thước: (0,17 x 0,05)m.

- Mặt ngoài cụm đèn pha phía trước để lại vết mài sát mòn nhựa kích thước:

(0,14 x 0,03)m.

- Cánh yếm bên trái bị tỳ nén, nứt vỡ, mặt trước cánh yếm bên trái để lại vết mài sát bám dính tạp chất màu đen kích thước: (0,15 x 0,03)m, cách đất 0,30m.

- Góc bên trái đầu bu chắn bùn phía trước để lại vết mài sát mòn sơn kích thước: (0,24 x 0,04)m, cách đất 0,59m.

- Đầu móc hãm phanh bên trái bánh lốp trước bị tỳ nén mài sát mòn kim loại bám dính tạp chất màu đen kích thước: (0,03 x 0,02)m, cách đất 0,21m.

- Đầu móc dây phanh bật rời, mài sát bám dính tạp chất màu đen kích thước:

(0,03 x 0,02)m.

- Đầu dưới giảm sóc trước bên trái để lại vết mài sát mòn kim loại bám dính tạp chất màu đen kích thước: (0,04 x 0,02)m, cách đất 0,21m.

- Mặt ngoài đầu cần số phía trước bên trái để lại vết mài sát mòn kim loại bám dính tạp chất màu đen kích thước: (0,03 x 0,01)m, cách đất 0,29m.

- Đuôi cần số bị tỳ nén cong vênh hướng từ trái qua phải.

- Để chân phía trước bên trái bị tỳ nén cong vênh hướng từ trước về sau, từ trái qua phải..

- Chân chống phụ bên trái bị tỳ nén, cong vênh hướng từ trái qua phải.

- Đầu núm tay lái bên trái để lại vết mài sát mòn kim loại bám dính bột đá kích thước: (0,02 x 0,02)m.

- Mặt ngoài lốc máy bên trái để lại vết mài sát bám dính tạp chất màu đỏ kích thước: (0,02 x 0,02)m, cách đất 0,30m.

 - Đầu để chân phía trước bên trái để lại vết mài sát mòn cao su, hở lõi sắt, bám dính bột đá kích thước: (0,02 x 0,02)m.

- Sườn bên trái yên xe để lại vết mài sát mòn rách da kích thước: (0,12 x 0,02)m, cách đất 0,63m. (bút lục số 36-37)

* Xe máy điện không có biển kiểm soát, nhãn hiệu Momen-Tum 133S, màu sơn đỏ-đen:

- Không có gương chiếu hậu bên phải, bên trái.

- Xi nhan phía trước bên phải bị tỳ nén, đứt gãy.

- Mặt ngoài bên phải giá đỡ giỏ xe phía trước để lại vết mài sát mòn sơn kích thước: (0,15 x 0,01)m, cách đất 0,58m.

- Mặt ngoài bên phải đầu bu chắn bùn phía trước để lại vết mài sát mòn sơn kích thước: (0,06 x 0,02)m, cách đất 0,49m.

- Má lốp bên phải bánh lốp trước để lại vết mài sát mòn cao su kích thước: (0,38 x 0,05)m.

- Mặt lăn bánh lốp trước để lại vết mài sát mòn cao su kích thước: (0,14 x 0,04)m, cách chân van 0,24m.

- Góc bên phải phía trước bậc để chân để lại vết mài sát mòn nhựa kích thước kích thước: (0,09 x 0,01)m, cách đất 0,21m.

- Sườn bên phải bậc để chân bị tỳ nén nứt vỡ, mặt ngoài để lại vết mài sát mòn nhựa, bong sơn kích thước: (0,58 x 0,22)m, cách chân 0,22m. (bút lục số 45-46)

* Tại bản Kết luận giám định cơ chế hình thành dấu vết số: 1009/KL-KTHS ngày 07/8/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

- Dấu vết nứt vỡ, mài sát nhựa ở bên phải để chân của xe máy điện được hình thành do va chạm với dấu vết mài sát kim loại, dính chất màu đen ở đầu móc dây phanh và thanh kim loại móc hãm phanh bên trái trục bánh trước của xe gắn máy 24HB – 083.66 tạo nên là phù hợp - Quá trình xảy ra va chạm khi xe máy điện ở tư thế chuyển động đứng thẳng va chạm với xe gắn máy 24HB- 083.66 ở tư thế chuyển động đứng chếch chéo từ bên phải đến theo hướng chuyển động của xe máy điện.

- Vị trí va chạm giữa xe máy điện với xe gắn máy 24HB- 083.66 trên mặt đường ở phía trước điểm đầu dấu vết trượt xước mặt đường ký hiệu số 1, thuộc khu vực ngã tư giao nhau giữa đường nội bộ từ cổng A2 đi khu Công nghiệp Vân Trung 2 và đường nội bộ từ cổng A1 đi công ty Newwing.

- Không đủ điều kiện để xác định tốc độ của hai phương tiện trước khi xảy ra tai nạn.

3. Kết quả khám nghiệm tử thi:

 Tử thi nữ giới được xác định là Hoàng Thị T, sinh năm 1994, ở phố 1, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Chiều dài tử thi 1,50m, thể tạng phát triển bình thường, tử thi đang trong giai đoạn mềm lạnh. Tử thi quấn chăn hoa màu xanh, vàng, trắng, đóng bỉm màu xanh.

* Các dấu vết tổn thương trên cơ thể:

- Vùng đầu: tóc đen nhuộm vàng, cắt ngang vai. Vùng chẩm có vết chợt da kích thước: (10 x 10)cm.

- Vùng mặt: hai mắt nhắm tự nhiên, Mũi, miệng khô, hai tai chảy máu màu đỏ. Sau tai tráo có vết bầm tím kích thước: (8 x 4)cm.

- Cổ: chắc, không thấy dấu vết thương tích.

- Vùng ngực, bụng, lưng, mông: Vùng thắt lưng phải có đám chợt da kích thước: (11 x 5)cm; Ngục, bụng, mông không thấy dấu vết thương tích. Thăn trái có vết chợt da kích thước: (4 x 4)cm.

- Tay phải: khuỷu tay phải có vết chợt da bầm tím kích thước: (6 x 3)cm.

- Tay trái: Khuỷu tay trái có vết bầm tím kích thước: (6 x 2)cm. Mặt trước 1/3 dưới cẳng tay trái có đám chợt da kích thước: (6 x 4)cm.

- Chân phải: không thấy dấu vết thương tích.

- Chân trái: Mặt ngoài 1/3 dưới cẳng chân trái có đám chợt da kích thước: (3 x 3)cm.

- Bộ phận sinh dục ngoài: Không thấy tổn thương.

- Hậu môn không thoát phân.

- Khám kỹ bên ngoài không phát hiện tổn thương nào khác.

* Mổ tử thi.

- Gia đình có đơn xin miễn mổ tử thi.

* Tại bản kết luận giám định pháp y số 4026/20/GĐPY, ngày 06/7/2020 của Trung tâm Pháp Y - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang kết luận nguyên nhân chết của Hoàng Thị T:

- Nguyên nhân chết: Chết do chấn thương sọ não, vỡ xương sọ, dập não, tụ máu, chảy máu nội sọ do tai nạn giao thông.

Bản Cáo trạng số 169/CT-VKS ngày 16/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên đã truy tố bị cáo Sùng Bác Th ra trước Tòa án nhân dân huyện Việt Yên để xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã truy tố, bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, Viện Kiểm sát truy tố bị cáo là đúng, không oan sai, bị cáo rất hối hận về hành vi vi phạm của mình.

Đại diện hợp pháp cho bị hại: anh Mã Văn B trình bày: anh là chồng chị Hoàng Thị T, anh không biết sự việc va chạm giao thông giữa chị T và anh Th xẩy ra như thế nào. Sau khi chị T mất, bị cáo Th và gia đình đã đến thắp hương và bồi thường cho gia đình anh tổng số tiền là 80.000.000 đồng, anh đã nhận số tiền trên. Đến nay anh không yêu cầu bị cáo Th phải bồi thường gì khác.

Ông Hoàng Văn M trình bày: ông là bố đẻ của chị Thảo, sự việc va chạm giao thông giữa chị T và anh Th xẩy ra như thế nào ông không nắm được. Ông xác định những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của chị T gồm có ông và anh B chồng chị T và ông, mẹ chị T đã mất từ năm 2017, con chị Thảo còn nhỏ (sinh năm 2017), chị T không có con nuôi và cũng không làm con nuôi của ai. Sau khi chị T mất ông có được anh B thông báo là gia đình bị cáo bồi thường số tiền là 80.000.000 đồng, số tiền này anh B đã nhận, ông đồng ý để anh B đứng ra giải quyết việc bồi thường liên quan đến việc của chị T, ông không có ý kiến gì và ông cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm khoản tiền gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Sùng Bác Th phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

* Về hình phạt:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Sùng Bác Th từ 12 tháng đến 15tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng.

Giao bị cáo cho UBND xã Ph, huyện B, tỉnh Lào Cai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Kiểm sát viên.

 Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo gửi lời xin lỗi đến gia đình bị hại, sự việc xảy ra do không may. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình Điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện và các chứng cứ, tài liệu điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 28 tháng 6 năm 2020, Sùng Bác Th, sinh ngày 17 tháng 6 năm 2003 điều khiển chiếc xe máy biển kiểm soát 24HB- 083.66 trên đường nội bộ khu công nghiệp Vân Trung do không chấp hành quy tắc tham gia giao thông, không làm chủ tốc độ, vi phạm Điều 12 Luật giao thông đường bộ, khoản 3 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29 tháng 8 năm 2019 của Bộ giao thông vận tải đâm vào xe máy điện do chị Hoàng Thị T, sinh năm 1994, trú tại: Phố 1, thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn điều khiển. Hậu quả chị T tử vong.

3] Như vậy hành vi của Sùng Bắc Th đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Cáo trạng và bản luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố bị cáo Sùng Bác Th về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan đối với bị cáo.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng và an toàn công cộng, gây mối lo ngại cho mọi người khi tham gia giao thông trên đường do vậy cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng luật hình sự nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định mức án phù hợp.

 [5] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại, đại diện hợp pháp của bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất vụ án, mức độ và hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho hưởng án treo có ấn định thời gian thử thách cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

Xét về mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị, Hội đồng xét xử thấy bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng khoản 6 Điều 91 BLHS để cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ hơn mức án do Kiểm sát viên đề nghị cũng đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa đối với bị cáo [7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Sùng Bác Th đã tác động gia đình bồi thường gia đình bị hại số tiền 80.000.000 đồng, đến nay đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và thuộc hộ cận nghèo và khi phạm tội bị cáo dưới 18 tuổi, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng: Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 24HB- 083.66 là của bị cáo Sùng Bác Th, chiếc xe máy điện là của chị Hoàng Thị T. Ngày 02/11/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên đã trả lại cho bị cáo Th và anh Mã Văn B là chồng chị Thảo. Do vậy về vật chứng Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Người làm chứng vắng mặt tại phiên toà nhưng đã có lời khai tại Cơ quan điều tra.Việc vắng mặt người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử cho nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[11] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ cận nghèo, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

 [12] Về quyền kháng cáo: áp dụng Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự để tuyên quyền kháng cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Sùng Bác Th 09 (Chín) tháng tù tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”,nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Sùng Bác Th cho Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện B, tỉnh Lào Cai giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

3. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 168/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:168/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về